Đảm bảo an ninh nguồn nước vì sự phát triển bền vững

Nguồn nước là một tài nguyên quý giá, có ảnh hưởng quan trọng và quyết định đến đời sống của người dân cũng như sự phát triển của đất nước. Vì vậy, việc đảm bảo an ninh nguồn nước là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết.
Cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong quản lý tài nguyên nướcCác vấn đề môi trường liên quan tới tài nguyên nước gồm những gì?Không có 'lợi ích nhóm' khi lùi thời gian thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nướcLùi thời gian thu tiền cấp quyền khoáng sản và tài nguyên nước: Số tiền cấp quyền khoáng sản thực chất đã thu gần đủ

An ninh nguồn nước đối mặt nhiều thách thức

Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc, có nguồn tài nguyên nước mặt tương đối dồi dào, nhưng vì là quốc gia nằm về phía cuối của các con sông lớn, chảy qua địa phận nhiều nước nên Việt Nam có yếu tố bất lợi là lượng nước mặt phụ thuộc rất lớn vào nguồn nước ngoại sinh. Khi các quốc gia vùng thượng nguồn đắp đập, ngăn dòng thì ngay lập tức ảnh hưởng tới sinh kế của hàng triệu người dân Việt Nam.

Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Trần Hồng Hà: Việt Nam có 3.450 sông, suối, chiều dài từ 10 km trở lên nằm trong 108 lưu vực với 331.000 km2 lưu vực nằm trong lãnh thổ nước ta (chiếm 28,3% tổng diện tích của 108 lưu vực). Tổng lượng dòng chảy trung bình nhiều năm của các sông vào khoảng 830-840 tỉ m3. Cả nước có hơn 7.160 hồ chứa thủy lợi, với tổng dung tích ước tính khoảng 70 tỉ m3. Nguồn nước ngầm có trữ lượng khoảng 189,3 triệu m3/ngày đêm, tiềm năng có thể khai thác trung bình khoảng 61,2 triệu m3/ngày đêm. Lượng mưa trung bình năm của Việt Nam khoảng 1.940-1.960 mm (tương đương 640 tỉ m3/năm), nằm trong số quốc gia có lượng mưa lớn trên thế giới.

tm-img-alt
An ninh nguồn nước đối mặt nhiều thách thức. (Ảnh minh họa)

Tuy nhiên, nguồn nước mặt của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn nước ngoại sinh. Hằng năm, các sông, suối xuyên biên giới chuyển vào nước ta khoảng 520 tỉ m3 nước, chiếm khoảng 63% tổng lượng nước mặt của Việt Nam. Nguồn nước nội sinh của Việt Nam chỉ đạt 4.200 m3/người/năm, thấp so với trung bình của Đông Nam Á là 4.900 m3/người/năm.

Đánh giá về thách thức đối với an ninh nguồn nước ở Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường nhắc tới sự phụ thuộc vào lượng nước sản sinh bên ngoài lãnh thổ nước ta với những dẫn chứng trên một số sông lớn. Cụ thể, nguồn nước sản sinh từ các quốc gia thượng nguồn lưu vực sông Mê Kông chiếm 90,1%, sông Hồng chiếm 38,5%, sông Cả chiếm 18,4% và sông Mã chiếm 27,1% tổng lượng nước chảy trên các con sông này.

Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, việc các quốc gia ở thượng nguồn các sông quốc tế triển khai đầu tư xây dựng, hoặc có kế hoạch gia tăng sử dụng nước, xây dựng các hồ thủy điện, công trình lấy nước, công trình chuyển nước liên lưu vực sông đều có tác động đến biến đổi dòng chảy về nước ta. Theo kết quả nghiên cứu của Hội đồng Ủy hội sông Mê Kông quốc tế, khi các công trình thủy điện hoàn thành xây dựng, đi vào vận hành sẽ có tác động bất lợi rất lớn đối với Việt Nam. Dự kiến, lượng phù sa, chất dinh dưỡng, môi trường, sinh kế người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có thể giảm 97% vào năm 2040.

Sử dụng nước còn kém hiệu quả, lãng phí

Ngoài vấn đề phụ thuộc vào nguồn nước ngoại sinh, an ninh nguồn nước tại Việt Nam còn gặp khó khăn do tình trạng sử dụng nước còn kém hiệu quả, lãng phí trong sản xuất cũng như sinh hoạt. Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà đánh giá, việc sử dụng nước ở Việt Nam còn kém hiệu quả, lãng phí. Tổng lượng nước sử dụng cho nông nghiệp chiếm hơn 80%, nhưng mỗi đơn vị m3 nước chỉ tạo ra 2,37 USD GDP, thấp hơn cả mức trung bình của Lào là 2,53 USD, trong khi mức trung bình toàn cầu là 19,42 USD.

Khi hiệu quả sử dụng nước thấp thì lượng nước dùng cho sản xuất sẽ phải nhiều hơn và chi phí sản xuất sẽ cao hơn. Vì thế, việc chưa chú trọng tới nâng cao hiệu quả sử dụng nước ở các cơ sở sản xuất nói chung, đặc biệt là ở các cơ sở sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy-hải sản nói riêng sẽ khiến giá thành sản phẩm làm ra cao hơn. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới tính cạnh tranh về hàng hóa và lợi nhuận của cơ sở sản xuất, người dân. Việc sử dụng nước lãng phí, kém hiệu quả còn góp phần khiến an ninh nguồn nước của nước ta bị thách thức nghiêm trọng hơn. Sự thiếu nước trầm trọng vào mùa khô ở Tây Nguyên một phần rất lớn là do khai thác nước quá mức, sử dụng nước lãng phí và thiếu hiệu quả trong trồng trọt.

tm-img-alt
Tình trạng sử dụng nước còn kém hiệu quả, lãng phí trong sản xuất cũng như sinh hoạt.

Cùng với đó, nhiều vấn đề đe dọa an ninh nguồn nước ở nước ta xuất phát từ chính những nguyên nhân chủ quan. Đó là tình trạng ô nhiễm nguồn nước do xả thải bừa bãi không qua xử lý vào sông, suối, kênh, rạch; hoặc chôn lấp rác thải không đúng quy chuẩn, do khai thác khoáng sản, do sử dụng hóa chất bừa bãi trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đó là tình trạng vi phạm hành lang bảo vệ nguồn nước làm biến đổi dòng chảy, suy giảm diện tích đất rừng-nguồn sinh thủy... 

TS Lê Anh Tuấn (Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu, Trường Đại học Cần Thơ) cho biết, bất cập hiện nay ở các dự án phát triển liên quan đến an ninh nguồn nước đó là các dự án tiêu thụ quá nhiều nước, có thể gây thiếu hụt về số lượng trong một thời điểm; làm thay đổi hệ sinh thái nước, gây bất lợi cho tính đa dạng sinh học. Đồng thời, các dự án còn tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người dân.... Do đó, việc đánh giá tác động môi trường các dự án không chỉ là xác định các nguy cơ liên quan đến an ninh nguồn nước mà còn phải xác định những giải pháp để loại trừ hoặc giảm thiểu ở mức tối đa các tác động tiêu cực đến tài nguyên nước.

Tái tạo và bảo vệ nguồn nước hợp lý

Kiến nghị các biện pháp tăng cường an ninh nguồn nước trong điều kiện biến đổi khí hậu, TS Đào Trọng Tứ, Trưởng ban Ban điều hành Mạng lưới sông ngòi Việt Nam cho rằng, trước hết, Việt Nam cần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước qua phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông. Cùng với đó, tăng cường đầu tư khoa học - công nghệ trong quy hoạch, thiết kế, xây dựng, hiện đại hóa tạo ra các hạ tầng nước thông minh ứng phó với biến đổi khí hậu để nâng mức đảm bảo và hiệu quả sử dụng nước của các hệ thống công trình tưới tiêu, cấp thoát nước, công trình phòng chống thiên tai.

Đồng thời, cần nâng cao nhận thức và sự tham gia của các bên liên quan, cộng đồng trong quản trị tài nguyên nước quốc gia; phát huy, tăng cường vai trò, quyền hạn của các tổ chức xã hội trong quá trình xây dựng, thực hiện pháp luật, chính sách, chiến lược, kế hoạch liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội nói chung và nước nói riêng.

Xét về góc độ quản lý, theo đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường, thể chế quản lý tài nguyên nước còn bất cập do nhiều Bộ, ngành cùng quản lý. Chính sự phân mảnh, cắt khúc ở nhiều cơ quan khiến việc quản lý tài nguyên nước trở nên chồng chéo, chưa thống nhất, không tập trung được nguồn lực, chi phí quản lý lớn nhưng hiệu quả lại không cao. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa hình thành được bộ cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước. Việc phát triển kinh tế chưa phù hợp với khả năng chịu tải của tự nhiên, khả năng cung ứng của nguồn nước.

Theo ông Triệu Ðức Huy, Phó Tổng giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Ðiều tra quốc gia (Bộ Tài nguyên và Môi trường), để giải bài toán thiếu hụt nguồn nước, điều quan trọng là quản lý, trữ nước và sử dụng hiệu quả nguồn nước, xác định cơ cấu cây trồng, chuyển đổi mùa vụ, hiệu quả kinh tế của các đối tượng sử dụng nước. Theo đó, Việt Nam cần phải quy hoạch phát triển trên cơ sở Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững Ðồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, lấy thuận thiên là chính và nước là yếu tố cốt lõi, từ đó xác định cơ cấu cây trồng, chuyển đổi mùa vụ, hiệu quả kinh tế của các đối tượng sử dụng nước.

Tài nguyên nước ngầm cần được coi là nguồn dự trữ chiến lược để bảo đảm an ninh cho cấp nước sinh hoạt, phải quản lý chặt chẽ nguồn nước này, tuyệt đối không dùng cho tưới và nuôi trồng thủy sản, công nghiệp, cũng như phải điều chỉnh giảm lưu lượng, mật độ khai thác nước ngầm ở các khu đô thị. Nguồn nước mặt cần được phân chia ra các khu, vùng nhỏ và có giải pháp trữ nước phù hợp với điều kiện tự nhiên để phát triển các ngành kinh tế cần sử dụng nước.

Theo đại diện Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường), trong thời gian tới, Bộ sẽ tiến hành rà soát, sửa đổi Luật Tài nguyên nước, trong đó, cần có các quy định khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển tài nguyên nước và các dịch vụ về nước như: Điều tra cơ bản, quan trắc, giám sát tài nguyên nước, công trình điều tiết nước, cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ về nước theo phương thức xã hội hóa. Mặt khác, cần quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sở hữu công trình tài nguyên nước hoặc thực hiện các dịch vụ về nước.

Đồng thời, cần phải rà soát lại hệ thống pháp luật liên quan đến cấp nước sinh hoạt cho người dân để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu bảo đảm an toàn tuyệt đối trong việc cấp nước sinh hoạt.

Về trách nhiệm, theo đại diện Cục Quản lý tài nguyên nước, cần quy định đầy đủ, rõ ràng quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước về tài nguyên nước từ Bộ, ngành tới chính quyền địa phương các cấp để đảm bảo quản lý nguồn nước hiệu quả.

20% trẻ em trên toàn cầu phải sống trong tình cảnh thiếu nước sạch

Theo Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), cứ 5 trẻ em trên thế giới thì có 1 trẻ không có đủ nước để sử dụng cho nhu cầu hàng ngày của bản thân. Hơn 80 quốc gia đang phải sống ở những khu vực có nguy cơ bị tổn thương do nước cao hoặc cực kỳ cao.

Vùng Đông và Nam châu Phi có tỉ lệ trẻ em sống ở những khu vực có nguy cơ bị tổn thương do nước cao hoặc cực kỳ cao nhiều nhất với hơn một nửa số trẻ em (58%) gặp khó khăn trong việc tiếp cận đủ nước mỗi ngày. Tiếp theo là khu vực Tây và Trung Phi (31%), Nam Á (25%) và Trung Đông (23%). Nam Á là nơi có số lượng trẻ em bị thiếu nước sạch nhiều nhất với hơn 155 triệu trẻ sống ở các khu vực có nguy cơ bị tổn thương do nước cao hoặc cực kỳ cao.

Báo cáo xác định 37 quốc gia "điểm nóng", nơi trẻ em phải đối mặt với tình trạng thiếu nước sạch đặc biệt nghiêm trọng và cần được hỗ trợ khẩn cấp. Danh sách này bao gồm Afghanistan, Burkina Faso, Ethiopia, Haiti, Kenya, Niger, Nigeria, Pakistan, Papua New Guinea, Sudan, Tanzania và Yemen.

Hoài Thu

Theo Tạp chí Kinh tế Môi trường