Khủng hoảng rác

Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng quá tải, ô nhiễm môi trường tại các bãi chôn lấp rác và các nhà máy xử lý rác thải, trong đó, có vấn đề về mặt quản lý, quy hoạch, về kỹ thuật, về tài chính và nhận thức của cộng đồng.
Khủng hoảng khói mù tại Đông Nam Á: Đâu là nguyên nhân và giải pháp?Khủng hoảng khí hậu có thể ‘phá hủy’ nền kinh tếKhủng hoảng chất lượng nước đe dọa sức khỏe con người và môi trường

Xử lý rác thải sinh hoạt như thế nào đang là vấn đề nhức nhối của nhiều địa phương hiện nay, khi lượng rác thải ngày càng nhiều quỹ đất dành cho việc chôn lấp ở nhiều tỉnh, thành phố ngày càng hạn hẹp nhưng công nghệ xử lý vẫn chưa thể đáp ứng được thực tế.

Tại các khu vực chôn lấp rác khu xử lý chất thải Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và Khu xử lý chất thải Xuân Sơn trên địa bàn thị xã Sơn Tây và huyện Ba Vì vẫn còn tình trạng nước rỉ rác, mùi rác và ruồi gây ảnh hưởng đến chất lượng sống của người dân xung quanh. Trong khi đó, tại TP.HCM cũng chẳng mấy khả quan.

Báo cáo của Bộ Xây dựng cho thấy, trong tổng số 660 bãi chôn lấp có quy mô lớn hơn 1 ha mới có 120 bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Chỉ tính riêng Hà Nội có tới 85 - 90% số bãi chôn lấp rác không hợp vệ sinh. Những bãi chôn rác tại các thành phố thường trực nguy có gây ô nhiễm nước và không khí.

khung hoang rac
Xử lý rác thải chỉ có thể giải quyết khi kết hợp giữa công nghệ, phân loại tại nguồn, quản lý thu gom vận chuyển đồng bộ.

Qua điều tra, khảo sát, nhiều bãi chôn lấp, nhà máy xử lý rác thải (XLRT) tại tỉnh, thành phố ở Việt Nam đang trong tình trạng quá tải. Một số bãi chôn lấp rác thải quy mô lớn (từ một đến vài nghìn tấn/ngày) gây ô nhiễm cho cả khu vực rộng lớn với khoảng cách xa tới cả chục km. Nước rỉ rác từ các bãi chôn lấp không được thu gom, xử lý triệt để, kịp thời gây ô nhiễm các nguồn nước mặt, thấm xuống đất gây ô nhiễm đất và nước ngầm. Nhiều nhà máy xử lý rác đang tồn đọng hàng chục nghìn (thậm chí hàng trăm nghìn) tấn rác thải chưa xử lý, được chất đống tại các bãi hở, không có mái che, không có chống thấm nền, không có hệ thống thu gom nước rỉ rác, nước mưa chảy tràn, không có biện pháp xử lý mùi hôi. Đây đang là những nguồn tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Chỉ tính riêng Hà Nội, có tới 85 - 90% số bãi chôn lấp rác không hợp vệ sinh. Nhiều bãi rác như bãi rác Nam Sơn (Sóc Sơn, Hà Nội) đang trong tình trạng quá tải.

Nguyên nhân tình trạng này, theo các chuyên gia môi trường, không phải là công nghệ xử lí rác mà là quá trình thu gom và xử lý rác chưa triệt để, công tác kiểm tra kiểm soát quy trình xử lý thu gom rác còn buông lỏng. Trong khi đó, công tác quy hoạch những bãi chôn lấp rác cho thành phố vẫn chưa cụ thể rõ ràng.

Công nghệ được coi là một trong những nguyên nhân chính nhưng chưa phải là nguyên nhân quan trọng nhất. Bởi lẽ bên cạnh các bãi chôn lấp rác, các nhà máy XLRT quá tải, gây ô nhiễm môi trường, vẫn có một tỉ lệ nhất định các bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh (một số bãi chôn lấp rác thải hợp vệ sinh tại TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu …), có một tỉ lệ nhất định các nhà máy XLRT làm phân bón hữu cơ vi sinh (tại Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu), nhà máy đốt rác thải kết hợp phát điện (tại TP. Cần Thơ) hoạt động hiệu quả, đạt các quy chuẩn môi trường. Điều này cho thấy, vấn đề lớn nhất, quan trọng nhất mang tính quyết định hiện nay trong XLRT tại Việt Nam không phải kỹ thuật, mà là tài chính. Do đơn giá XLRT quá thấp, nên không đủ hấp dẫn các nhà đầu tư công nghệ cao, đồng thời, cản trở quá trình đầu tư xã hội hóa trong lĩnh vực này.

Theo TS. Hoàng Dương Tùng - nguyên Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Môi trường, chôn lấp là biện pháp rẻ tiền nhất, ít tốn kém nhất nên được sử dụng nhiều. Không chỉ ở Việt Nam, hầu hết, các nước đang phát triển vẫn áp dụng mặc dù công nghệ này không giải quyết hoàn toàn bài toán môi trường. Bất cập lớn hiện nay ở những bãi rác sử dụng công nghệ chôn lấp nhưng lại không làm tầng lót đáy tốt dẫn đến hiện tượng nước rác rỉ, gây mùi hôi.

Đồng quan điểm này nhiều chuyên gia cho rằng, trước mắt, chôn lấp rác vẫn là biện pháp phù hợp nhất với điều kiện hiện nay của Việt Nam. Tuy vậy, phải có quy hoạch, chúng ta phải chọn được đúng nơi, xử lí về nền móng, xử lí về vi sinh để đảm bảo vệ sinh và làm thế nào có thể thu được nước thải để xử lí, đó là những vấn đề về kĩ thuật. Phải có sự điều chỉnh ngay cả trong tư duy làm quy hoạch và cách nghĩ đi từ công nghệ mà ra, chứ không phải quy hoạch theo địa điểm theo lối tư duy cũ.

Xử lý rác thải chỉ có thể giải quyết khi kết hợp giữa công nghệ xử lí rác và phân loại rác tại nguồn và quản lý thu gom vận chuyển rác phải đồng bộ. Để làm được những điều này cần sự hợp tác của người dân thông qua quản lý của chính quyền.

Theo (TNMT)