Quy mô khiêm tốn, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng
Diễn đàn "Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam năm 2022” vừa mới diễn ra, do Ban Kinh tế Trung ương phối hợp Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tỉnh ủy Phú Yên tổ chức. Diễn đàn nằm trong chuỗi sự kiện Tuần lễ biển và hải đảo Việt Nam năm 2022 và nhằm đánh giá các kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân sau 4 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, từ đó kiến nghị, đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư những nhiệm vụ, giải pháp thực hiện tốt Nghị quyết trong thời gian tới.
Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về "Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045", kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển của các địa phương và đất nước.
Theo Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh, trong tiến trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng vai trò của biển. Theo đó, các chủ trương, chính sách lớn về biển và phát triển bền vững kinh tế biển đã được Trung ương xem xét, ban hành để thống nhất tổ chức triển khai thực hiện.
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá X về Chiến lược biển Việt Nam, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Theo đó, đến năm 2030, phát triển thành công, đột phá về các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới.
Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên Phạm Đại Dương cho biết, kinh tế biển là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong thế kỷ của “biển và đại dương”. Đây cũng chính là khu vực sẽ chứng kiến nhiều sự cạnh tranh, đòi hỏi mỗi quốc gia phải có sự tiếp cận phù hợp, kịp thời để có thể khai thác lợi thế này nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện "Chiến lược biển Việt Nam", dù có nhiều tiềm năng, quy mô kinh tế biển vẫn còn khiêm tốn, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý. Đồng thời, môi trường biển biến đổi theo chiều hướng xấu, đa dạng sinh học và nguồn lợi thuỷ sản đang giảm sút nghiêm trọng. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển; các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tại biển, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... ở ven biển còn nhỏ, trang bị thô sơ, năng lực còn yếu. Đồng thời, môi trường biển biến đổi theo chiều hướng xấu. Đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thủy sản đang giảm sút nghiêm trọng, thiếu bền vững.
Bên cạnh nguyên nhân khách quan từ diễn biến cực đoan trong biến đổi khí hậu toàn cầu, Lãnh đạo Ban Kinh tế Trung ương cho rằng, những hạn chế trên chủ yếu đến từ nguyên nhân chủ quan như tổ chức bộ máy phát triển kinh tế biển còn nhiều bất cập.
"Các phương thức quản lý biển mới còn chậm áp dụng như quản trị theo không gian, quản lý tổng hợp vùng bờ biển, chưa bố trí nguồn lực phát triển phù hợp", Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Tuấn Anh đặt vấn đề.
Ngoài ra, các phương thức quản lý biển mới, tiên tiến như: Quản trị biển theo không gian, quản lý tổng hợp vùng bờ biển, quy hoạch không gian biển còn chậm được áp dụng. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển còn thiếu và chưa đồng bộ.
Cần chính sách đột phá thu hút nguồn lực cho phát triển
Thế kỷ 21 được xem là thế kỷ của đại dương, biển đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc gia. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng, “ra biển là thịnh vượng, ngược biển là suy tàn”.
Trước những yêu cầu đặt ra, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh cho rằng, phải phát triển đồng bộ, từng bước hình thành khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị sinh thái ven biển; phát triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hoà giữa bảo tồn và phát triển; bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai; nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hoá biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển. Bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế.
Trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Lê Minh Ngân nhấn mạnh, nhiệm vụ trước mắt cần tập trung thực hiện một số nội dung cụ thể như: Cần kiến tạo môi trường chính sách hợp lý cho nền kinh tế biển bền vững, kinh tế xanh để khai thác bảo vệ hiệu quả tài nguyên môi trường phát triển bền vững kinh tế biển, thúc đẩy thu hút, huy động được các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển nhiều lĩnh vực kinh tế biển mới như: điện gió ngoài khơi, nuôi, đánh bắt xa bờ, tập trung thăm dò, khai thác các loại khoáng sản chiến lược…; khẩn trương triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển và hải đảo…
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 36-NQ/TW đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta trong xu thế phát triển chung toàn cầu. Để phát triển bền vững Kinh tế biển Việt Nam, trong thời gian tới, Bộ TN&MT sẽ kiến tạo môi trường chính sách, pháp lý cho nền KTB bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững kinh tế biển, thúc đẩy thu hút và huy động được các nguồn lực xã hội cho phát triển các ngành kinh tế biển mới, như: Điện gió ngoài khơi, nuôi biển xa bờ; Tăng cường điều tra cơ bản tập trung thăm dò, tìm kiếm các loại khoáng sản, kim loại chiến lược…
Đồng thời, Bộ TN&MT sẽ triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển và hải đảo, phát triển kinh tế biển, trọng tâm là Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch không gian biển quốc gia; Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ; Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia; Quy hoạch các khu vực biển, đảo cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Theo Báo cáo “Kinh tế biển xanh Việt Nam - Cơ hội và thách thức” do Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ TN&MT thực hiện) vừa công bố ngày 12/5/2022, hoạt động kinh tế biển ở Việt Nam rất đa dạng, có thể chia thành các hoạt động kinh tế đều diễn ra trên biển (kinh tế hàng hải, đánh bắt và nuôi trồng hải sản; khai thác dầu khí ngoài khơi; du lịch biển; làm muối; dịch vụ tìm kiếm, cứu nạn...) và các hoạt động kinh tế không diễn ra trên biển nhưng liên quan trực tiếp đến khai thác biển (đóng mới và sửa chữa tàu thuyền; công nghiệp chế biến dầu khí, thủy sản...)
Việt Nam có tiềm năng cho việc phát triển công nghiệp dầu khí lâu dài và bền vững. Lĩnh vực dầu khí đóng góp đáng kể cho GDP và ngân sách, góp phần cung cấp nguồn lực để xóa đói, giảm nghèo, đầu tư phát triển các vùng sâu, vùng xa, vì vậy cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài và hành lang pháp lý thuận lợi để huy động nguồn lực trong nước cho phát triển.
Ngoài ra, Việt Nam được đánh giá có nguồn điện từ gió ngoài khơi, thủy triều, sóng biển và dòng hải lưu rất lớn nếu được khai thác, sẽ đóng góp thiết thực cho mục tiêu phát triển kinh tế biển xanh.
Lan Anh