Quy hoạch nguồn nước liên vùng - chìa khóa sống còn cho ĐBSCL

ĐBSCL thiếu nước ngọt nghiêm trọng do biến đổi khí hậu và khai thác thượng nguồn, cần quy hoạch nước liên vùng và hệ thống cấp nước thô quy mô lớn.

Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với khủng hoảng thiếu nước ngọt nghiêm trọng sau gần một thập kỷ khô hạn. Biến đổi khí hậu và khai thác thượng nguồn khiến nhu cầu quy hoạch nước liên vùng, điều tiết và cấp nước thô quy mô lớn trở nên cấp bách.

Khi nước trở thành yếu tố chiến lược của vùng đất “chín rồng”

Chưa bao giờ nước lại trở thành yếu tố quyết định sự sống còn của cả vùng như hiện nay. Ba mùa khô nghiêm trọng từ 2015–2016, 2019–2020 và 2023–2024 đã khẳng định hạn và mặn không còn là hiện tượng chu kỳ, mà là xu hướng thường trực.

Quy hoạch nguồn nước liên vùng - chìa khóa sống còn cho Đồng bằng sông Cửu Long - Ảnh 1
Những dòng kênh từng hiền hòa nay cũng trở nên khắc nghiệt, để lại vết hằn của biến đổi khí hậu trên từng thửa đất, từng nhịp sống người dân miền hạ lưu.

Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, đợt hạn mặn 2015–2016 đã khiến hơn 160.000 ha lúa thiệt hại, hàng triệu người dân thiếu nước sinh hoạt. Năm 2019–2020, xâm nhập mặn phá kỷ lục lịch sử khi ranh mặn 4‰ vượt sâu 110km tại sông Vàm Cỏ, 130kg ở sông Cửa Tiểu và sông Cửa Đại (Bến Tre).

Mùa khô 2023–2024, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, ranh mặn 4‰ tại các cửa sông ĐBSCL lấn sâu 40–66km, có nơi “tương đương hoặc vượt đỉnh 2016”. Báo cáo tại Hội thảo “Sống chung với hạn, mặn vùng ĐBSCL” do Bộ TN&MT và Báo Tiền Phong tổ chức (3/2024) cho biết thiệt hại kinh tế hiện trạng ước tính hơn 70.000 tỷ đồng, và nếu không có giải pháp vùng, thiệt hại này sẽ tiếp tục tăng đến 2050.

Bước vào mùa khô 2026, Tổng cục Khí tượng Thủy văn cảnh báo vùng này sẽ còn hứng chịu 3–4 đợt xâm nhập mặn cao điểm. Điều đó cho thấy: dù người dân đã quen “sống chung với mặn”, nhưng vựa lúa lớn nhất cả nước đang phải đối diện vòng lặp “thiếu nước - giảm sản xuất - thiệt hại – đầu tư lại” mỗi năm một khốc liệt hơn.

Cần một quy hoạch nguồn nước liên vùng có tính đến biến đổi khí hậu

Theo Quy hoạch vùng ĐBSCL giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn 2050 (Quyết định 287/QĐ-TTg), nước là một trong bốn trụ cột phát triển cùng với hạ tầng, kinh tế và con người. Tuy nhiên, đến nay, hệ thống cấp nước vùng vẫn chắp vá, phân tán.

Quy hoạch nguồn nước liên vùng - chìa khóa sống còn cho Đồng bằng sông Cửu Long - Ảnh 2
Thiếu nguồn nước thô đạt tiêu chuẩn đã trở thành niềm trăn trở vào mỗi mùa khô của các nhà máy cấp nước tại nhiều địa phương ở ĐBSCL.

Hiện hơn 60% công trình cấp nước ở ĐBSCL có quy mô nhỏ hơn 10.000 m³/ngày, chỉ đáp ứng nhu cầu nội tỉnh, không có khả năng chia sẻ nguồn khi mặn xâm nhập hoặc hạn kéo dài. Nhiều địa phương vùng hạ lưu như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng vẫn phụ thuộc vào nguồn nước ngầm và một phần nước mặt từ sông Tiền, sông Hậu, vốn đang suy giảm mạnh cả về lưu lượng và chất lượng.

Thực tế đó đòi hỏi tư duy liên vùng: nước không thể bị “đóng khung” trong địa giới hành chính. Việc hình thành các tuyến ống cấp nước thô liên tỉnh, trạm bơm vùng và hồ điều tiết trung tâm – như định hướng trong Quy hoạch vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (QĐ 287/QĐ-TTg) – là điều kiện tiên quyết để bảo đảm an ninh nước.

Bài học từ Nhật Bản: Quy hoạch nước sạch và nước thải đồng bộ

Nhật Bản từng trải qua khủng hoảng nguồn nước đô thị nghiêm trọng giai đoạn 1950–1970. Từ đó, nước này xây dựng Luật cơ bản về nước (Water Basic Law) và hệ thống quản lý lưu vực thống nhất giữa trung ương và địa phương.

Nhờ đó, Nhật Bản trở thành quốc gia có tỷ lệ cấp nước sạch đạt gần 100% dân số, và 90% lượng nước thải được thu gom, xử lý – theo Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch Nhật Bản (MLIT, 2023). Đặc biệt, tỷ lệ thất thoát nước chỉ còn 3% tại Tokyo, mức thấp nhất thế giới.

Quy hoạch nguồn nước liên vùng - chìa khóa sống còn cho Đồng bằng sông Cửu Long - Ảnh 3
Hệ thống xử lý nước khổng lồ với công nghệ hiện đại bậc nhất thế giới của Nhật Bản.

Mô hình của Nhật Bản mang lại nhiều kinh nghiệm quý cho Việt Nam. Trước hết là tư duy quy hoạch theo lưu vực, thay vì theo ranh giới hành chính, giúp việc điều phối nguồn nước diễn ra thông suốt và hiệu quả hơn. Nhà nước đảm nhận đầu tư hạ tầng khung – các hồ chứa, tuyến ống, trạm điều tiết – trong khi chính quyền địa phương vận hành theo những tiêu chuẩn kỹ thuật thống nhất.

Điểm thứ hai là sự kết nối đồng bộ giữa hệ thống nước sạch, nước thải và tái sử dụng, tạo nên chu trình khép kín, giảm thất thoát và tối ưu hóa từng mét khối nước.

Cuối cùng, Nhật Bản thành công trong việc huy động khu vực tư nhân tham gia theo hình thức PPP đối với các hạng mục có dòng tiền ổn định như xử lý nước thải, phân phối nước đô thị – mô hình xã hội hóa bền vững mà Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng.

ĐBSCL hoàn toàn có thể áp dụng mô hình này trong quy hoạch nước sạch – nước thải liên vùng, đặc biệt khi đã có nền tảng chính sách rõ ràng từ Đề án 06 và Quy hoạch cấp nước vùng.

Quy hoạch nguồn nước ngọt liên vùng – hướng đi tất yếu cho an ninh nước vùng Mekong

Theo các chuyên gia tại Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu – Đại học Cần Thơ, giải pháp lâu dài không thể chỉ là đắp đập ngăn mặn, mà phải là liên kết nguồn nước từ thượng lưu sông Tiền, sông Hậu đến vùng ven biển, bảo đảm cấp nước quanh năm cho sinh hoạt và sản xuất.

Quy hoạch nguồn nước liên vùng - chìa khóa sống còn cho Đồng bằng sông Cửu Long - Ảnh 4
Bài toán về một nguồn nước bền vững đang là bài toán nhức nhối của khu vực ĐBSCL.

Một trong những dự án tiên phong theo hướng đó là Trạm bơm nước thô Nhà máy nước Đồng Tâm và hệ thống tuyến ống truyền tải liên vùng, phục vụ cấp nước cho Đồng Tháp, Tây Ninh, Vĩnh Long. Dự án này nếu vận hành đúng quy hoạch sẽ là “viên gạch đầu tiên” cho mô hình liên kết nước vùng, góp phần cụ thể hóa mục tiêu của Quy hoạch ĐBSCL 2021–2030 về điều phối tài nguyên nước đa tỉnh.

Song song với hạ tầng, cần một trung tâm điều phối nước vùng, đóng vai trò như “bộ điều độ hệ thống”, để đồng bộ lịch xả – lấy nước giữa các trạm, hồ điều tiết và cống kiểm soát mặn.

Đồng bằng sông Cửu Long đang ở giai đoạn bản lề: hoặc tiếp tục ứng phó bị động với hạn – mặn, hoặc chủ động kiến tạo hệ sinh thái nước sạch vùng. Bài học từ Nhật Bản cho thấy, chỉ khi quy hoạch nước sạch, nước thải và hạ tầng thoát nước được xem là một thể thống nhất, vùng mới đạt được mục tiêu phát triển bền vững.

Nếu làm tốt, mỗi tuyến ống, mỗi trạm bơm sẽ không chỉ cấp nước cho dân cư, mà còn “cấp năng lượng sống” cho toàn bộ nền kinh tế – xã hội vùng hạ lưu Mekong.

PV