Xu hướng chính sách thực hiện Kinh tế tuần hoàn trên thế giới

Từ Kinh tế tuyến tính dựa trên khai thác và tiêu dùng đến Kinh tế tuần hoàn dựa trên phục hồi và tái tạo, là sự chuyển dịch góp phần giải quyết được đồng thời nhiều vấn đề lớn hiện nay, đó là suy giảm tài nguyên, gia tăng rác thải và ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh hướng tới phát triển bền vững, sự chuyển dịch đó là tất yếu, bởi nó giúp phá vỡ mối liên hệ thường thấy giữa phát triển kinh tế và các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường.
Kinh tế tuần hoàn từ tái chế nhựa: Nguồn tài nguyên đang bị bỏ phíKinh tế tuần hoàn tài nguyên quản lý rác thải sinh hoạtGiải pháp cho vấn đề khan hiếm tài nguyên và bảo vệ môi trườngGiải pháp cho vấn đề khan hiếm tài nguyên và bảo vệ môi trường

Bản chất của Kinh tế tuần hoàn

xu huong chinh sach thuc hien kinh te tuan hoan tren the gioi
Hình 4: Kinh tế tuyến tính và Kinh tế tuần hoàn. (Nguồn: Báo cáo của Chính phủ Hà Lan)

Những áp lực lớn kể trên đã đặt ra yêu cầu cần có sự thay đổi. Các mô hình kinh tế tuyến tính trước đây đi theo một đường thẳng, bắt đầu từ Khai thác nguyên liệu thô từ thiên nhiên, làm đầu vào cho Sản xuất, rồi đến Tiêu dùng và cuối cùng là Thải loại (Hình 4), có thể nói chính là quá trình biến tài nguyên thành chất thải, do đó tất yếu sẽ dẫn tới cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường.

Trong khi đó, dựa trên cơ sở của nguyên lý động lực học và định luật bảo toàn vật chất và năng lượng, Kinh tế tuần hoàn (KTTH) hướng tới việc kết nối điểm cuối của quá trình ấy trở lại với điểm đầu, hướng tới khôi phục và tái tạo các vật chất ở cuối mỗi vòng khai thác, sản xuất, phân phối và tiêu dùng, giữ cho vật liệu được sử dụng lâu nhất có thể.

Cần lưu ý, KTTH không phải là một khái niệm mới xuất hiện. Schivelbusch chỉ ra rằng, những ý tưởng đầu tiên về tuần hoàn vật liệu đã có trong nông nghiệp từ thế kỷ XVIII. Tới năm 1966, Boulding so sánh Trái đất như một tàu vũ trụ trong không gian và đưa ra luận điểm rằng, một hệ thống KTTH là bắt buộc để duy trì sự tồn tại bền vững của con người trên Trái đất. Tuy nhiên, được biết đến nhiều nhất là báo cáo của Stahel và Ready về lĩnh vực công nghiệp chế tạo ô tô và xây dựng, với ý tưởng cốt lõi là việc kéo dài vòng đời sản phẩm sẽ giúp tiết kiệm năng lượng và sức lao động của ngành này.

Từ đó, họ lập luận rằng một nền kinh tế với các vòng tuần hoàn khép kín, ưa thích việc tái sử dụng, ưa thích sửa chữa và tái sản xuất hàng hóa hơn là sản xuất hàng hóa mới, sẽ có tác động tích cực trong việc tạo việc làm, cạnh tranh kinh tế, tiết kiệm tài nguyên. Đây là một quan điểm mới có tính đột phá ở thời điểm đó. Những năm sau, khái niệm KTTH tiếp tục trải qua nhiều bước thay đổi để phát triển toàn diện hơn. Kirchherr, Reike và Hekkert thống kê rằng, đã có tới 114 cách hiểu về KTTH được đưa ra. Trong đó có cả những cách hiểu đơn giản như KTTH là giảm phát thải, đến những khái niệm phức tạp hơn như 3R và 4R và cả 9R. Một số khái niệm tiêu biểu có thể kể đến như sau:

Khái niệm KTTH do tổ chức Ellen MacArthur Foundation trình bày tại Hội nghị Kinh tế toàn cầu năm 2012: “KTTH là một hệ thống có tính tái tạo và khôi phục thông qua các kế hoạch và thiết kế chủ động. Nó thay thế khái niệm “kết thúc vòng đời” của vật liệu bằng khái niệm khôi phục, chuyển dịch theo hướng sử dụng năng lượng tái tạo, không dùng các hóa chất độc hại gây tổn hại tới việc tái sử dụng và hướng tới giảm thiểu chất thải thông qua việc thiết kế vật liệu, sản phẩm, hệ thống kỹ thuật và cả các mô hình kinh doanh trong phạm vi của nó”.

xu huong chinh sach thuc hien kinh te tuan hoan tren the gioi
KTTH “là cách tốt nhất để phá vỡ mối liên hệ lâu nay giữa tăng trưởng kinh tế và các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường”. (Ảnh minh họa)

Đặc biệt, đầu năm 2020, Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) đã tổng hợp và đưa ra định nghĩa như sau “KTTH đề cập đến một nền kinh tế nơi giá trị của sản phẩm, nguyên vật liệu và tài nguyên được duy trì trong nền kinh tế lâu nhất có thể và đồng thời giảm tối thiểu chất thải”. UNEP và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế đều cho rằng KTTH “là cách tốt nhất để phá vỡ mối liên hệ lâu nay giữa tăng trưởng kinh tế và các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường”.

Như vậy, có thể coi KTTH là một tư duy phát triển kinh tế để thay thế cho kinh tế tuyến tính, dựa trên triết lý của khôi phục và tái tạo. Các mô hình KTTH là những mô hình kinh tế, kỹ thuật, quản lý,… thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, từ công nghiệp, nông nghiệp đến dịch vụ, giúp giảm chất thải ra môi trường và từ đó hạn chế lượng tài nguyên cần khai thác cho sản xuất sản phẩm mới.

Cụ thể, KTTH có 3 nguyên lý cơ bản sau đây:

- Bảo tồn và phát triển vốn tự nhiên thông qua việc kiểm soát, nhằm sử dụng hợp lý các tài nguyên và tái tạo các hệ thống tự nhiên; đặc biệt là đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo;

- Tối ưu hóa lợi tức của tài nguyên bằng cách tuần hoàn các sản phẩm và vật liệu nhiều nhất có thể trong các chu trình kỹ thuật và sinh học;

- Nâng cao hiệu suất chung của toàn hệ thống bằng cách tối thiểu hóa các ngoại ứng tiêu cực thông qua thiết kế chất thải, thiết kế ô nhiễm ngay từ đầu của quá trình sản xuất.

Đa lợi ích của Kinh tế tuần hoàn

Với những nguyên lý kể trên, có thể thấy KTTH hoàn toàn phù hợp với Tăng trưởng xanh, Kinh tế xanh và Phát triển bền vững, những chiến lược phát triển mà các quốc gia đang thực hiện. Phân tích sâu các thuật ngữ, ta có thể thấy rằng KTTH tương hỗ với Tăng trưởng xanh, để đóng góp vào việc xây dựng nền tảng Kinh tế xanh và từ đó hướng tới phát triển bền vững.

xu huong chinh sach thuc hien kinh te tuan hoan tren the gioi
Hình 5: Một số chủ trương của Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước liên quan tới KTTH. (Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả)

Cụ thể, với việc giúp giảm khai thác tài nguyên và đồng thời giảm phát thải, trong đó có giảm phát thải khí nhà kính, KTTH hỗ trợ cho mục tiêu SDG 12 – Sản xuất và tiêu dùng bền vững và mục tiêu SDG 13 – Hành động vì khí hậu, trong khi không hề xem nhẹ phát triển kinh tế. Hơn nữa, trong quá trình thực hiện của mình, KTTH còn trực tiếp thúc đẩy các mục tiêu chung khác như: SDG 2 – Xóa đói và sản xuất thực phẩm bền vững; SDG 6 – Nước sạch và vệ sinh; SDG 7 – Năng lượng sạch với giá hợp lý; SDG 8 – Tăng trưởng kinh tế và việc làm bền vững; SDG 9 – Công nghiệp, sáng tạo và hạ tầng; SDG 14 – Các đại dương bền vững; SDG 15 – Sự sống trên mặt đất và SDG 17 – Hợp tác để hướng tới mục tiêu chung.

Như vậy, KTTH có thể tạo ra tác động trực tiếp tới 10 trong tổng số 17 mục tiêu chung của phát triển bền vững. Thậm chí, Khi xét đến các mục tiêu cụ thể, 134 trên tổng số 169 mục tiêu cụ thể có liên quan chặt chẽ với KTTH, đặc biệt là các mục tiêu liên quan đến biến đổi khí hậu. Vì thế, thực hiện KTTH chính là nhằm thực hiện các mục tiêu của phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu. Với Việt Nam, việc thực hiện chuyển đổi từ các mô hình kinh tế tuyến tính sang KTTH sẽ góp phần quan trọng cho thực hiện mục tiêu “phát triển nhanh, bền vững” được đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 2011-2020.

Không chỉ vậy, KTTH còn tạo ra các cơ hội thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội. Từ năm 2015, các nhà nghiên cứu của tổ chức Accenture, Anh Quốc đã dự đoán KTTH có thể tạo ra lợi ích cho thế giới tương đương với 4,5 nghìn tỉ USD. Riêng Châu Âu, ước tính các mô hình KTTH có thể đem lại 600 tỉ Euro lợi ích ròng mỗi năm, tạo ra 580.000 việc làm mới và đồng thời giúp giảm một lượng lớn phát thải khí nhà kính.

Ngoài ra, mục tiêu tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên lên 30% vào năm 2030 từ các mô hình KTTH của Châu Âu sẽ giúp tạo ra thêm 2 triệu việc làm, đồng thời giúp tăng GDP của toàn khối lên 1% từ hiệu quả sử dụng tài nguyên và 3,9% từ việc tạo ra các thị trường mới và sản phẩm mới. Tại Hoa Kỳ, nhiều tỉ phú đã nổi lên từ các mô hình thu gom và tái chế vật liệu. Ước tính lợi ích mà KTTH có thể tạo ra cho nước Úc là khoảng 26 tỉ Đô la Úc mỗi năm.

xu huong chinh sach thuc hien kinh te tuan hoan tren the gioi
Quản lý chất thải rắn - Vấn đề “nóng” của đô thị Việt Nam. (Ảnh minh họa)

Với Việt Nam, chỉ tính riêng một mô hình KTTH, đó là mô hình khu công nghiệp sinh thái được thực hiện tại 4 khu công nghiệp tại Ninh Bình, Cần Thơ và Đà Nẵng, đã giúp tiết kiệm được 6,5 triệu USD hàng năm. Những lợi ích của KTTH đang ngày càng được thể hiện rõ, thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp và nhà đầu tư.

Xu hướng chính sách thực hiện KTTH trên thế giới

Như đã trình bày ở trên, KTTH thực tế đã có từ thế kỷ XVIII, tuy nhiên, các chính sách chính thức của Nhà nước nhằm thực hiện KTTH chỉ mới được ghi nhận đầu tiên vào nửa sau của thế kỷ XX, sau khi các báo cáo của Stahel và Ready trở nên phổ biến. Tiêu biểu, Hà Lan thực hiện KTTH những năm 1970, với bước đi đầu tiên là “thang Lansink”, ưu tiên ngăn ngừa và hạn chế phát sinh chất thải, thúc đẩy tái sử dụng và tái chế, sau đó là việc xử lý rác bằng phương pháp đốt trước khi áp dụng biện pháp cuối cùng là chôn lấp.

Tại Đức là Luật về Quản lý chất thải và Chu trình khép kín (Closed Substance Cycle and Waste Management Act) năm 1996. Tại châu Mỹ, Hoa Kỳ có các cách tiếp cận dựa vào thị trường đối với rác thải từ năm 1677. Tại châu Á, Nhật Bản khởi xướng với Luật Cơ bản cho việc thành lập một xã hội dựa trên tái chế (The Basic Law for Establishing a Recycling-Based Society) từ năm 2002. Năm 2009, Trung Quốc cũng có Luật Xúc tiến KTTH (Circular Economy Promotion Law). Tới nay đã có khoảng 45 quốc gia với 118 mô hình tiêu biểu thực hiện việc chuyển dịch từ các mô hình kinh tế tuyến tính sang KTTH.

xu huong chinh sach thuc hien kinh te tuan hoan tren the gioi
Sản xuất tiêu dùng hướng tới nền kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững. (Ảnh minh họa)

Hầu hết các quốc gia trên đều đã ban hành các luật, bộ luật cũng như chính sách liên quan đến kế hoạch, đánh giá, giám sát và đo lường sự phát triển kinh tế tuần hoàn nhằm phát triển bền vững kinh tế, xã hội và đặc biệt trong lĩnh vực quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Trong đó, đặc biệt cần lưu ý rằng KTTH không chỉ là quản lý chất thải, mà nên được xem xét đầy đủ theo cả 4 giai đoạn gồm: Sản xuất, tiêu dùng, quản lý chất thải và cuối cùng là biến chất thải trở lại thành tài nguyên. Mặc dù hiện nay, phần lớn các quốc gia vẫn tập trung vào các giai đoạn sau, đó là quản lý chất thải (trong đó đặc biệt là tái chế, tái sử dụng vật liệu) nhưng các giai đoạn đầu của sản xuất (đặc biệt là thiết kế sản phẩm thân thiện với môi trường, dễ tái chế, thiết kế chất thải) ngày càng được coi trọng hơn.

Tiêu biểu cần kể đến là Kế hoạch hành động KTTH của Liên minh châu Âu, đã chỉ rõ cần tiếp cận thực hiện KTTH theo 4 giai đoạn của vòng đời sản phẩm, gồm: (i) Sản xuất, trong đó đặc biệt chú ý tới khâu thiết kế (Redesign); (ii) Tiêu dùng; (iii) Quản lý chất thải; (iv) Biến chất thải trở lại thành tài nguyên. Kế hoạch hành động này cũng xác định 6 lĩnh vực ưu tiên thực hiện KTTH, đó là: Nhựa, Chất thải thực phẩm, Các nguyên liệu quan trọng, Xây dựng và Phá dỡ, Nhiên liệu sinh khối và Sản phẩm sinh học.

Tại Việt Nam, thuật ngữ KTTH chưa được chính thức sử dụng trong các chủ trương của Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, nhiều yếu tố của KTTH đã được đề cập (Hình 5).

Ngay từ năm 1998, Chỉ thị số 36/CT-TW đã đề cập tới “áp dụng công nghệ sạch, ít phế thải, tiêu hao ít nguyên liệu và năng lượng”, sau đó là Nghị quyết 41 đưa ra các định hướng về “khuyến khích tái chế, sử dụng sản phẩm tái chế”, “thu hồi và xử lý sản phẩm đã qua sử dụng”… Từ các chủ trương đó của Đảng, Nhà nước đã ban hành Luật và các chính sách liên quan tới “khai thác và sử dụng tiết kiệm tài nguyên”, “sử dụng năng lượng tái tạo”, 3R, “thay thế túi nilon”, “sản xuất và tiêu dùng bền vững”, “chuỗi cung ứng xanh”, “tiêu dùng xanh”…

Từ Kinh tế tuyến tính dựa trên khai thác và tiêu dùng đến Kinh tế tuần hoàn dựa trên phục hồi và tái tạo, là sự chuyển dịch góp phần giải quyết được đồng thời nhiều vấn đề lớn hiện nay, đó là suy giảm tài nguyên, gia tăng rác thải và ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh hướng tới phát triển bền vững, sự chuyển dịch đó là tất yếu, bởi nó giúp phá vỡ mối liên hệ thường thấy giữa phát triển kinh tế và các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường.

Kinh tế tuần hoàn đồng thời đem lại nhiều lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường rõ rệt, là hướng đi được nhiều quốc gia lựa chọn và Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Những áp lực với Việt Nam là rất lớn đối với tài nguyên và môi trường trong quá trình phát triển kinh tế, bên cạnh đó cơ hội cũng không nhỏ. Chúng ta cần đổi mới tư duy và cách tiếp cận mới, chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn để nắm bắt những cơ hội và hạn chế các vấn đề tiêu cực của cách thức phát triển kinh tế cũ.

PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh, TS.Nguyễn Hoàng Nam - Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường
Theo Tạp chí Kinh tế Môi trường