9 thách thức lớn với an ninh nguồn nước
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên nước khá phong phú cả về lượng mưa, nguồn nước mặt trong các hệ thống sông, hồ và nguồn nước dưới đất. Hiện nay, Việt Nam có 3.450 sông, suối có chiều dài từ 10 km trở lên. Tổng tài nguyên dự báo nước dưới đất của cả nước khoảng 91 tỉ m3, trong đó nước nhạt khoảng 69 tỉ m3/năm (189,3 triệu m3/ngày).
Nguồn nước là một tài nguyên quý giá, có ảnh hưởng quan trọng và quyết định đến đời sống của người dân cũng như sự phát triển của đất nước. Vì vậy, việc đảm bảo an ninh nguồn nước là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết.
Theo đó, an ninh nguồn nước là loại an ninh đặc biệt, tác động đến sự phát triển bền vững của đất nước. Trong các năm 2013, 2016, 2020, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã thực hiện đánh giá an ninh nguồn nước cho các quốc gia khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thông qua 5 khía cạnh, gồm: An ninh nguồn nước hộ gia đình; An ninh nguồn nước đô thị; An ninh nước cho ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng); An ninh nước cho môi trường; Ứng phó với các thảm họa (hạn hán, thiếu nước, lũ lụt). Đối với Việt Nam, ADB đánh giá an ninh nguồn nước quốc gia của Việt Nam trong các năm 2013, 2016 và 2020 chỉ đạt mức bảo đảm 2/5 và ở mức thấp, trong khi đó, ở Indonesia đạt mức 3/5, Hàn Quốc và Úc đạt 4/5.
Ngoài ra, Ủy ban Khoa học, công nghệ và Môi trường của Quốc hội cũng đã chỉ ra 9 thách thức đối với an ninh nguồn nước: Thiếu nước, phân bố nước không đều theo không gian, thời gian; tác động của biến đổi khí hậu; ô nhiễm nguồn nước; nguồn nước phụ thuộc lớn vào nước ngoài; mâu thuẫn sử dụng nước trên lưu vực sông; khả năng tiếp cận nước sạch an toàn chưa cao; bảo vệ rừng, nguồn sinh thủy lưu vực sông; hiệu quả sử dụng nước thấp; vấn đề nguồn lực và cũng khẳng định việc bảo đảm an ninh nguồn nước là vấn đề hệ trọng có tính chiến lược trong phát triển của các quốc gia và ở Việt Nam và phải có giải pháp tổng thể và nguồn lực đủ mạnh cho vấn đề này.
Các đánh giá này hoàn toàn có cơ sở bởi tiềm năng tài nguyên nước Việt Nam khoảng 830 - 840 tỷ m3, tuy vậy, an ninh nguồn nước ở nước ta đang đứng trước nguy cơ không được đảm bảo do phụ thuộc nguồn nước từ nước ngoài chảy vào (60%); dòng chảy phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở lưu vực sông Cửu Long (khoảng 57%), sông Hồng - Thái Bình (16%), còn lại phân bố ở các lưu vực sông khác; dòng chảy mùa cạn chiếm từ 10 - 15%; nguồn nước mặt còn chịu tác động từ khai thác, sử dụng ở thượng nguồn bên ngoài biên giới, chịu tác động của biến đổi khí hậu, ô nhiễm gia tăng.
Trong khi đó, nguồn nước dưới đất của nước ta có tiềm năng khoảng 63 tỷ m3. Nguồn nước này hiện đang được khai thác phục vụ phát triển kinh tế - xã hội khoảng 84 tỷ m3/năm, nhu cầu dùng nước ở nước ta tăng 32% (khoảng 111 tỷ m3/năm) vào năm 2030 và nguy cơ mất đảm bảo an ninh nguồn nước ngày càng gia tăng nếu không kịp thời có đánh giá và các biện pháp đảm bảo an ninh nguồn nước.
“Coi sản phẩm nước là hàng hoá, nâng cao hiệu quả bảo vệ nguồn nước”
Năm 2020, báo cáo “Giám sát an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập” của Ủy ban Khoa học Quốc hội cũng đã chỉ rõ một số thách thức ảnh hưởng đến an ninh nguồn nước tại Việt Nam như: Chưa đảm bảo về số lượng, chất lượng nguồn nước; chưa đảm bảo về cấp nước, an toàn hồ chứa, phụ thuộc nguồn nước ở nước ngoài, ô nhiễm, xâm nhập mặn... Chính vì vậy, xây dựng Đề án đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia là một nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm mô tả bức tranh tổng thể về tài nguyên nước Việt Nam, nhằm cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Theo đó, mục tiêu cụ thể của Đề án đến năm 2030 là giảm thiểu tối đa sự phụ thuộc, tối ưu hóa lợi ích do nguồn nước mang lại từ các nguồn nước liên quốc gia; chủ động điều tiết nước, phòng ngừa, ứng phó với các sự cố ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn; khắc phục có hiệu quả, bền vững tình trạng hạn hán, thiếu nước vào mùa khô các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, ĐBSCL, vùng sâu, vùng xa và các hải đảo…
Ngoài ra, cần nâng cao khả năng tiếp cận nguồn nước sạch, an toàn cho người dân và các ngành sử dụng nước; kiểm soát cơ bản 90% các hoạt động khai thác, sử dụng nước, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, an toàn, công bằng, hợp lý, gắn với bảo vệ và phát triển tài nguyên nước, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đến năm 2045 và những năm tiếp theo, cơ bản 100% các nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt được xử lý, phục hồi, phục vụ cấp nước, bảo vệ môi trường sinh thái. Cơ bản 100% các cơ sở khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước trên phạm vi cả nước được kiểm soát, áp dụng công nghệ tiên tiến, các công nghệ tiết kiệm nước và giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước…
Đặc biệt, Đề án nhấn mạnh: “Phải coi sản phẩm nước là hàng hoá, đồng thời tiếp tục khuyến khích, thu hút các nguồn lực xã hội, các thành phần kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ, phát triển nguồn nước, giảm thiểu tác hại do nước gây ra và nâng cao giá trị của nước”.
Bởi nguồn nước ở Việt Nam có nguồn gốc từ bên ngoài lãnh thổ nên việc hợp tác, chia sẻ lợi ích, bảo đảm công bằng và hợp lý trong khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển nguồn nước liên quốc gia phải thực hiện trên nguyên tắc bảo đảm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia nhằm đạt được việc sử dụng tối ưu và bền vững lợi ích do nguồn nước mang lại.
Thứ trưởng Lê Công Thành nhấn mạnh, xây dựng Đề án đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia phải thể hiện được nội dung bao quát, toàn diện về bức tranh tài nguyên nước tại Việt Nam nhằm xác định những nguy cơ về an ninh nguồn nước và các vấn đề, nhiệm vụ, giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản của an ninh nguồn nước quốc gia.
Việc xây dựng Đề án đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, nhằm cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từng bước nâng cao sự bảo đảm an ninh nguồn nước cho các trụ cột an ninh nguồn nước như: Môi trường; Ứng phó với các rủi ro (hạn hán thiếu nước, lũ lụt); Ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng...); Thông qua các hoạt động chủ yếu về hoàn thiện, bổ sung thể chế, chính sách; Quản trị ngành nước; Các biện pháp công trình, phi công trình cụ thể cho từng giai đoạn...
Lan Anh (T/h)