Đất ngập nước, Nước và Sự sống không thể tách rời

Trước sự tác động của biến đổi khí hậu, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội tại một số vùng đất ngập nước ở nước ta hiện đang đối mặt với tình trạng suy thoái ngày càng tăng. Điều này làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên.
Giải pháp hiệu quả bảo tồn các khu đất ngập nước ở Việt NamBảo tồn vùng đất ngập nước để phát triển bền vững'Không thể tách rời - Đất ngập nước'

Theo Cục Bảo tồn thiên nhiên, sự suy thoái và mất ĐNN chủ yếu là do chuyển đổi mục đích sử dụng đất và xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác nước, ô nhiễm môi trường và khai thác quá mức.

Tuy nhiên, các chuyên gia, nhà khoa học lĩnh vực ÐDSH đều cho rằng: Bên cạnh việc chịu sự tác động của biến đổi khí hậu, các vùng ÐNN ở Việt Nam hiện đang đối mặt với tình trạng suy thoái ngày càng gia tăng do các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội bởi chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất như chuyển từ đất cạn sang ÐNN (đắp đập thủy điện, hồ chứa, nuôi trồng thủy sản, quai đê lấn biển, tái định cư…); xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác nước, ô nhiễm môi trường và khai thác quá mức; thay đổi chế độ thủy văn đã làm suy giảm các giá trị của nhiều vùng ÐNN.

Trong khi đó, vẫn còn không ít địa phương chưa đánh giá đúng và phát huy được giá trị dịch vụ hệ sinh thái ÐNN, còn tồn tại các xung đột trong việc hài hòa giữa mục tiêu phát triển và bảo tồn các vùng ÐNN. Ðiều này làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên của vùng ÐNN, có thể dẫn đến sự suy giảm hơn nữa chất lượng cuộc sống của con người, nhất là đối với những người nghèo sống chung quanh khu vực này.

tm-img-alt

Việt Nam hiện có khoảng 12 triệu héc-ta ĐNN(ĐNN), đa dạng về kiểu loại và phân bố ở mọi vùng sinh thái của đất nước. Theo phân loại của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam có 26 kiểu loại ÐNN khác nhau, bao gồm: ÐNN biển và ven biển; ÐNN nội địa và nhân tạo. Ngoài ra, ÐDSH của ÐNN cũng hết sức phong phú, ước tính có khoảng hơn 1.000 loài cá, 848 loài chim, 800 loài động vật không xương sống ở hệ sinh thái nước ngọt và hơn 11 nghìn loài sống ở hệ sinh thái ÐNN biển, ven biển. Kể từ khi tham gia Công ước Ramsar, Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động về bảo tồn và sử dụng hợp lý ÐNN để thực hiện trách nhiệm quốc gia thành viên, xây dựng hành lang pháp luật về quản lý ÐNN như: Nghị định số 66/2019/NÐ-CP ngày 29-7-2019 của Chính phủ về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng ÐNN; quy hoạch thành lập mới 45 khu bảo tồn ÐNN đến năm 2030. 

Công ước về các vùng ĐNN (Công ước Ramsar, Iran, 1971) là một điều ước quốc tế với sứ mệnh “bảo tồn và sử dụng khôn khéo các vùng ĐNN thông qua các hành động của địa phương, khu vực, quốc gia và hợp tác quốc tế nhằm góp phần đạt được mục tiêu phát triển bền vững trên toàn thế giới" với sự tham gia của 171 quốc gia. Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên trở thành thành viên của Công ước Ramsar từ năm 1989.

Các vùng ĐNN có vai trò rất quan trọng đối với tài nguyên nước và cuộc sống con người. Vùng ĐNN đảm bảo nguồn cấp nước cho thế giới thông qua quá trình thu giữ và lưu trữ nước mưa, bổ sung vào các tầng chứa nước ngầm, điều tiết lượng nước, giữ cho lưu vực đầu nguồn trong lành cung cấp nước uống an toàn một cách tự nhiên. Các vùng ĐNN cung cấp lương thực, thực phẩm hỗ trợ sản xuất, một lượng lớn thủy sản được đánh bắt từ các vùng ĐNN, đồng thời, ĐNN cũng cung cấp gạo cho 3,5 tỉ người trên thế giới. ĐNN còn có vai trò rất quan trọng đối với đa dạng sinh học, 40% số loài trên thế giới sống ở vùng ĐNN.

tm-img-alt
Các vùng ĐNN có vai trò rất quan trọng đối với sự sống trên hành tinh.

Sau hơn 20 năm thực hiện Công ước Ramsar, Việt Nam là thành viên tích cực, đã và đang có nhiều nỗ lực trong xây dựng hệ thống thể chế, chính sách và bảo tồn và sử dụng khôn khéo các vùng ĐNN.

Tuy nhiên, biến đổi khí hậu đang gia tăng sự không chắc chắn trong việc quản lý, áp lực đối với sức khỏe của ĐNN. Nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác quản lý, bảo tồn ĐNN.

Đánh giá Thiên niên kỷ về Công ước Ramsar và tương lai của ĐNN, Ban Thẩm định Khoa học và Kỹ thuật Ramsar đã đưa ra các cảnh báo như việc suy thoái và biến mất của ĐNN diễn ra với tốc độ nhanh hơn so với các hệ sinh thái khác.

Tương tự như vậy, ở một mức độ thấp hơn, các loài sinh vật nước ngọt và ven biển đang suy thoái nhanh hơn so với các loài trong các hệ sinh thái khác. Đa dạng sinh học liên quan đến ĐNN nhiều nơi trên thế giới đang suy giảm nhanh và liên tục ở mức báo động.

Các hành động làm suy thoái ĐNN

Các vùng ĐNN đang ngày càng bị tác động mạnh mẽ do các hoạt động phát triển kinh tế của con người và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu.

Nhiều vùng ĐNN đã bị biến mất và diện tích các vùng ĐNN bị thu hẹp do gia tăng sức ép khai thác, sử dụng ĐNN và các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên các vùng ĐNN; giảm chất lượng đất và nước, thay đổi cấu trúc và chức năng dịch vụ hệ sinh thái ở nhiều vùng ĐNN trên toàn quốc.

Theo đánh giá của Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, sự suy thoái và mất ĐNN chủ yếu là do chuyển đổi mục đích sử dụng đất và xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác nước, ô nhiễm môi trường và khai thác quá mức.

Các chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất như chuyển từ đất cạn sang ĐNN (đắp đập thuỷ điện, hồ chứa, nuôi trồng thuỷ sản, quai đê lấn biển, tái định cư …) hoặc thay đổi chế độ thủy văn đã làm suy giảm các giá trị của nhiều vùng ĐNN.

Sự mất mát có xu hướng nhanh hơn ở những khu vực có tốc độ gia tăng dân số cao nhất và những khu vực có nhu cầu phát triển kinh tế lớn nhất. Hàng loạt nguyên nhân gây ra việc ĐNN tiếp tục bị mất và suy thoái liên quan đến kinh tế, bao gồm cả trợ cấp bảo hộ.

Biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ tiếp tục làm trầm trọng thêm sự mất mát và suy thoái đa dạng sinh học ĐNN, bao gồm các loài không thể di chuyển và các loài di cư sống phụ thuộc vào một số vùng ĐNN ở các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống.

Theo Sách đỏ năm 2012 của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới, tại Việt Nam có ít nhất 135 loài đang bị đe dọa trên toàn cầu đang cư trú tại các sinh cảnh nước ngọt lục địa, bãi triều và ven biển. Số liệu này có thể gia tăng nếu không có giải pháp quản lý hiệu quả.

Hiện trạng sử dụng hệ sinh thái ĐNN - nước ngọt và khai thác thủy sản phụ thuộc vào sự tái sinh tự nhiên. Tại một số khu vực sự tái sinh tự nhiên hiện nay vượt quá mức có thể duy trì cho nhu cầu hiện tại nhưng lại giảm đi so với nhu cầu trong tương lai.

Sự suy thoái và mất ĐNN có thể dẫn đến sự suy giảm hơn nữa chất lượng cuộc sống của con người, đặc biệt đối với những người nghèo và các khu vực chưa có các giải pháp công nghệ.

Nhận thức chưa đúng đắn về tầm quan trọng, giá trị và chức năng của vùng ĐNN dẫn đến việc nhiều vùng ĐNN còn bị coi là đất hoang hoá. Các dịch vụ hệ sinh thái của vùng ĐNN chưa được chú trọng trong các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội.

Nhiều địa phương chưa đánh giá đúng và phát huy được giá trị dịch vụ hệ sinh thái ĐNN, còn tồn tại các xung đột trong việc hài hoà giữa mục tiêu phát triển và bảo tồn các vùng ĐNN. Điều này làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên của vùng ĐNN.

Nguồn lực về tài chính, cơ chế đầu tư trong quản lý ĐNN còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng ĐNN, hạn chế hiệu quả quản lý các hệ sinh thái, khu bảo tồn vùng ĐNN của Việt Nam.

Khôi phục lại các vùng ĐNN

Tiến sỹ Nguyễn Thành Vĩnh, Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, cho rằng khôi phục các vùng ĐNN đã bị suy thoái là cách hiệu quả và kinh tế để tăng lưu giữ nước mặt và nước ngầm, cải thiện chất lượng nước, duy trì sản xuất nông nghiệp, thủy sản và bảo vệ đa dạng sinh học. Các giải pháp để dừng các hoạt động làm suy thoái ĐNN cần được chú trọng.

Khôi phục ĐNN và duy trì chu kỳ thủy văn là vô cùng quan trọng đối với việc ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ lũ, cấp nước, cung cấp thực phẩm và bảo tồn đa dạng sinh học.

ĐNN ven biển sẽ đóng một phần quan trọng trong các chiến lược ứng phó với các vấn đề trong khu vực ven biển do nước biển dâng gây ra.

Các chiến lược giải quyết biến đổi khí hậu phải gồm việc sử dụng ĐNN một cách khôn ngoan. Các cá nhân, cộng đồng và chính quyền phải hợp tác để bảo vệ, đối phó và phục hồi các hệ sinh thái khỏi các tác động của biến đổi khí hậu.

Trước mắt, trong bối cảnh hiện nay, một số biện pháp cần được thúc đẩy để bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng ĐNN như đẩy mạnh triển khai hiệu quả Nghị định số 66/2019/NĐ-CP ngày 29/7/2019 về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng ĐNN trên toàn quốc.

Trong số đó, cần chú trọng việc hoàn thiện và trình ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 66/2019/NĐ-CP; kế hoạch hành động quốc gia về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng ĐNN; danh mục các vùng ĐNN quan trọng.

Cơ quan chức năng cần tổ chức các hoạt động tuyên truyền và huy động sự tham gia, cam kết của cộng đồng trong bảo tồn, sử dụng bền vững các vùng ĐNN, dừng các hoạt động gây suy thoái các vùng ĐNN và thúc đẩy phục hồi đa dạng sinh học các vùng ĐNN.

Bên cạnh đó, cần tăng cường năng lực quản lý, nâng cao hiệu quả bảo tồn và sử dụng khôn khéo ĐNN, đặc biệt là phát huy được các giá trị dịch vụ hệ sinh thái ĐNN và bảo vệ được đặc tính sinh thái của các hệ sinh thái ĐNN có giá trị cao về đa dạng sinh học, môi trường và kinh tế-xã hội.

Cần quản lý các vùng ĐNN cần phải dựa trên phương pháp tiếp cận hệ sinh thái, quản lý tổng hợp các đối tượng, các mối quan hệ qua lại tác động lên các thành phần của hệ sinh thái ĐNN và tính đến các yếu tố biến đổi khí hậu, các yếu tố xuyên biên giới để đảm bảo duy trì chất lượng dịch vụ hệ sinh thái của ĐNN.

Đầu tư các nguồn lực trong việc bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng ĐNN là nhằm quản lý hiệu quả các hệ sinh thái, khu bảo tồn vùng ĐNN của Việt Nam.

tm-img-alt
Khu bảo tồn ĐNN Vân Long.

Cần thực hiện nhằm tăng cường hiệu quả về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng ĐNN là tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước: tổ chức thực hiện tốt các quy định của Nghị định 66/2019/NĐ-CP; tăng cường phối hợp liên ngành bảo tồn và sử dụng bền vững ĐNN; thực hiện lồng ghép nội dung bảo tồn và sử dụng bền vững ĐNN trong quy hoạch quốc gia về đa dạng sinh học và quy hoạch tỉnh; tăng cường thực thi pháp luật về bảo tồn và sử dụng bền vững ĐNN; nâng cao năng lực cơ quan liên quan trong quản lý ĐNN, đặc biệt các cơ quan ở cấp địa phương.

Cùng với đó, đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ nhằm tăng cường bảo tồn và sử dụng bền vững ĐNN, bao gồm cả việc xác định các vùng ĐNN có tầm quan trọng và thành lập, quản lý các khu bảo tồn ĐNN; điều tra, theo dõi diễn biến của các vùng ĐNN, nghiên cứu và thực hiện các biện pháp để bảo tồn các đặc tính, cấu trúc, chức năng của ĐNN, đặc biệt là đa dạng sinh học của vùng ĐNN; phục hồi các vùng ĐNN bị suy thoái.

 Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn - Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học (Tổng cục Môi trường - Bộ TN&MT) nhận định: “ Các vùng ĐNN có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống trên hành tinh. ĐNN cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái quan trọng cho sự phát triển thịnh vượng của mỗi quốc gia, bao gồm cung cấp nguồn lợi phục vụ cho phát triển nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là thủy sản, nông nghiệp, du lịch… Lúa gạo được trồng từ các vùng ĐNN là nguồn lương thực chủ yếu cho khoảng 3 tỉ người, chiếm khoảng 20% nguồn tiêu thụ dinh dưỡng toàn cầu. Các vùng ĐNN còn là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng; là nơi nghỉ dưỡng, giải trí và đóng góp đáng kể trong sự phát triển của ngành du lịch. Đến nay, các vùng ĐNN cung cấp sinh kế cho hơn 1 tỉ người trên thế giới.

Đặc biệt, ĐNN có khả năng dự trữ các bon (các vùng đất than bùn chứa đựng 30% lượng các bon ở mặt đất), điều tiết nguồn nước, điều hòa khí hậu, hạn chế lũ lụt, là nơi lắng đọng phù sa, hình thành đất và tham gia tích cực trong vòng tuần hoàn các chất dinh dưỡng của hệ sinh thái toàn cầu. ĐNN cũng là “cái nôi” quan trọng của đa dạng sinh học; 40% các loài sinh vật trên Trái đất sinh sống và sinh sản ở các vùng ĐNN. Đa dạng sinh học vùng ĐNN góp phần làm sạch nguồn nước, chất ô nhiễm; bảo vệ, giảm thiểu tác động của bão, nhất là các hệ sinh thái rừng ngập mặn, rạn san hô là tấm chắn bảo vệ vùng ven biển.

Thanh Thúy