Gia tăng sử dụng nước ngầm quá mức sẽ là hệ lụy lớn cho phát triển kinh tế - xã hội

Việc gia tăng sử dụng nguồn nước ngầm trong những năm gần đây là vấn đề báo động, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu - nước biển dâng, tác động của việc giảm sút nguồn nước sông Mê Kông và nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt và sản xuất nhiều hơn.
Quy hoạch vùng ĐBSCL thành trung tâm kinh tế, phát triển các đô thịQuy hoạch TP.HCM không tách rời ĐBSCLBiến đổi khí hậu ở ĐBSCL: Thích ứng để phát triển bền vữngĐBSCL: Nhiều lợi thế phát triển năng lượng tái tạo quy mô lớn

Nước ngầm Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức

Nước ngầm là một dạng nước dưới đất, tích trữ trong các lớp đất đá trầm tích bở rời như cặn, sạn, cát bột kết, trong các khe nứt, hang caxtơ dưới bề mặt trái đất, có thể khai thác cho các hoạt động sống của con người.

Việc khai thác quá mức, liên tục các mạch nước ngầm ở nhiều khu vực đã dẫn đến suy giảm nghiêm trọng, làm cho đất đai bị sụt lún, dẫn đến nguy cơ cạn kiệt tài nguyên nước ngầm.

Kết quả nghiên cứu của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia (Bộ TN&MT) cho thấy, tại tất cả vị trí đo đạc, mực nước ngầm đã giảm sút, có những nơi rất nghiêm trọng, đặc biệt vào mùa khô tại các tỉnh ven biển như: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre. Hệ quả là tình trạng lún sụt mặt đất đang xảy ra ở vùng ĐBSCL. Việc khai thác nước dưới đất với số lượng lớn và mật độ cao đã làm suy giảm nguồn nước dưới đất, dẫn đến tăng số lượng giếng khai thác, tăng thời gian và chi phí tưới tiêu, giảm năng suất. Ngoài ra, việc bơm quá mức nước ngầm cho các hoạt động nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản khiến nước ngầm trong tầng chứa nước bị nhiễm mặn.

Gia tăng sử dụng nước ngầm quá mức sẽ là hệ lụy lớn cho phát triển kinh tế - xã hội - Ảnh 1
Việc khai thác quá mức, liên tục các mạch nước ngầm ở nhiều khu vực đã dẫn đến nguy cơ cạn kiệt tài nguyên nước ngầm.

Theo nhiều chuyên gia, tình trạng khai thác nước ngầm được cảnh báo từ nhiều năm trước, việc khai thác nước ngầm quá mức gây ra nhiều hệ lụy sụt lún, ô nhiễm tầng chứa nước. Số liệu thống kê năm 2010 đã có hơn 2 triệu m3 nước được khai thác/ngày, thực tế con số có thể hơn 2 triệu m3 nước được khai thác ở ĐBSCL.

Trao đổi với báo chí, ông Nguyễn Minh Khuyến – Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ TN&MT), nguồn nước ngầm hiện nay (nước ta) đang đối mặt với nhiều thách thức như: Khai thác gia tăng do nguồn nước mặt không đủ cung cấp (nước mặt ô nhiễm, suy giảm dòng chảy); khai thác gia tăng dẫn đến xâm nhập mặn đến công trình khai thác nước ngầm. Nhiều nơi suy giảm chưa có dấu hiệu hồi phục. Ô nhiễm chất có chứa nguồn gốc Nitơ, như NH4, NO3 ở một số nơi nhất là tại khu vực phía Nam Hà Nội.

Bên cạnh đó, theo thống kê sơ bộ, tổng lượng khai thác nước dưới đất trên toàn quốc ước tính khoảng 10,5 triệu m3/ngày đêm (chiếm khoảng 17,2% trữ lượng nước dưới đất có thể khai thác), trong đó có nhiều thành phố, đô thị lớn chủ yếu khai thác nguồn nước dưới đất như Hà Nội, TP.HCM, Cần Thơ, Vũng Tàu… Nguồn nước dưới đất được khai thác để cấp nước cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó chủ yếu cấp nước sinh hoạt (đô thị, nông thôn), sản xuất, ngoài ra còn khai thác để phục vụ cho một số mục đích khác (tưới cà phê, cây công nghiệp ở Tây Nguyên; nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm trên cát ở ven biển miền Trung, bán đảo Cà Mau,…).

Tỷ lệ thất thoát nước cho cấp nước đô thị và nông thôn còn ở mức cao (khoảng 25%), công suất khai thác nước thực tế còn thấp hơn rất nhiều so với năng lực thiết kế nhất là khai thác nước trong thủy lợi, nông nghiệp. Hầu hết các hệ thống công trình thủy lợi đều chưa khai thác đạt năng lực thiết kế mà chỉ ở mức từ 50 đến 90% tùy theo từng khu vực. Trong khi, việc điều tiết nước, hiệu quả sử dụng nước thấp, chưa tiết kiệm, thất thoát nước còn lớn (trong thủy lợi khoảng 30%).

Thiếu hụt nguồn nước cho phát triển kinh tế

Việc khai thác nước quá mức gây ra những hậu quả đáng lo ngại. Kết quả nghiên cứu bước đầu do Bộ TN&MT thực hiện đã ghi nhận xu thế nâng, hạ - sụt lún vùng TP.HCM và ĐBSCL có biên độ nâng, hạ ở mức độ khác nhau.

Trong đó, vùng có biên độ nâng (từ 2,4 - 11,4mm/năm) có diện tích khoảng 5,8 nghìn km2 thuộc khu vực các tỉnh An Giang, Kiên Giang và một phần diện tích ở Đông Bắc TP.HCM; vùng có biên độ hạ (từ 7,4 - 11,8 mm/năm) phân bố trên toàn bộ diện tích còn lại của ĐBSCL và TP.HCM với diện tích khoảng 36,8 nghìn km2. Việc sụt lún do nguyên nhân tự nhiên có xu hướng giảm dần cho đến khi đồng bằng ổn định.

Nông nghiệp là ngành sử dụng nước lớn nhất và hiệu quả sử dụng nước của ngành này sẽ quyết định nguồn cung nước cho các mục tiêu sử dụng khác trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng nước trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta hiện nay, theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, còn thấp.

Gia tăng sử dụng nước ngầm quá mức sẽ là hệ lụy lớn cho phát triển kinh tế - xã hội - Ảnh 2
Cần quy hoạch khai thác an toàn đối với mỗi lưu lượng khai thác nhằm hạn chế dịch chuyển ranh giới mặn nhạt và giảm tốc độ xâm nhập mặn.

Theo PGS.TS Lê Anh Tuấn, Cố vấn Nghiên cứu Khoa học Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu - Trường Đại học Cần Thơ, việc gia tăng sử dụng nguồn nước ngầm trong những năm gần đây là vấn đề nhiều nơi đã báo động, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu - nước biển dâng, tác động của việc giảm sút nguồn nước sông Mê Kông và nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt và sản xuất nhiều hơn.

Đối với hệ thống thủy lợi, hệ thống kênh mương dẫn nước mới chỉ bê tông hóa các hạng mục đầu mối quan trọng, hầu hết hệ thống đấu nối ra đồng ruộng là các kênh đất, được xây dựng từ khá lâu, từ khi đất nước còn rất nghèo, trình độ khoa học công nghệ còn thấp nên thất thoát nước còn lớn và rất khó kiểm soát. Hầu hết hệ thống kênh dẫn đang sử dụng hiện nay là kênh hở nên việc bốc hơi nước trong điều kiện mùa khô là cao, đặc biệt là các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận…

Trong đó, nhiều hồ được xây từ rất lâu nên công nghệ sử dụng lạc hậu, chủ yếu là đập đất; hạ tầng đấu nối đi kèm không thể tương thích cũng làm giảm hiệu quả hoạt động của công trình; nhiều hồ không thể tích được đủ nước theo dung tích thiết kế, thậm chí không thể tích nước, mất an toàn… nên cũng ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác, sử dụng nước.

Cần quy hoạch khai thác an toàn đối với mỗi lưu lượng khai thác

Trong những năm qua, nhằm quản lý tốt hơn tình trạng khai thác nước ngầm, Chính phủ đã ban hành Nghị định 167 quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất. Trong đó quy định, các địa phương tổ chức khoanh định, công bố Danh mục các vùng hạn chế khai thác nước dưới đất và áp dụng các biện pháp hạn chế khai thác tại các khu vực nước dưới đất có nguy cơ bị ô nhiễm, xâm nhập mặn, hạ thấp mực nước quá mức, sụt lún đất… Nhằm hạn chế việc hạ thấp mực nước quá mức trong các tầng chứa nước, Nghị định có những quy định cụ thể ngưỡng giới hạn về mực nước dưới đất tùy theo từng khu vực.

Ngoài ra, Bộ TN&MT đã và đang tập trung vào việc sửa đổi Luật tài nguyên nước, trong đó chú trọng việc sửa đổi, bổ sung các chính sách nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhằm bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, bền vững tài nguyên nước dưới đất.

Tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ tài nguyên nước dưới đất tại các địa phương, đặc biệt là việc ban hành Danh mục vùng hạn chế khai thác nước dưới đất, thực hiện các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất phù hợp; xử lý, trám lấp các giếng hỏng, không sử dụng nhằm hạn chế ô nhiễm nước dưới đất;

Bàn về các giải pháp, PGS.TS Lê Anh Tuấn cho rằng, trước hết các đô thị lớn, các vùng kinh tế trọng điểm cần hạn chế khai thác lưu lượng nước dưới đất quá lớn tại các khu vực có nguy cơ bị xâm nhập mặn (ít nhất giảm việc khai thác khoảng 1% cho mỗi năm). Các khu vực ven biển nên có quy hoạch khu vực khai thác nước an toàn đối với mỗi lưu lượng khai thác nước nhằm hạn chế dịch chuyển ranh giới mặn nhạt và giảm tốc độ xâm nhập mặn.

Ngoài biện pháp lưu trữ nước ngọt, tiết kiệm sử dụng nước và chuyển đổi sản xuất nông nghiệp, có thể áp dụng kỹ thuật bổ cập nước ngầm nhân tạo bằng cách bơm nén nguồn nước ngọt từ nước mưa, nước lũ, nước sông sạch xuống các vỉa nước dưới đất để dần dần phục hồi trữ lượng như trước đây.

Trả lời chất vấn về nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường tại Phiên họp thứ 9 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà nhấn mạnh, việc khai thác nước ngầm tràn lan là một trong các nguyên nhân chính gây sụt lún, ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng tại TP.HCM cũng như các tỉnh vùng ĐBSCL.

Bên cạnh đó, với nền địa chất ở khu vực này yếu, trong khi có nhiều công trình xây dựng lớn dẫn đến nguy cơ sụt lún cao ở đây. Chính phủ có đề án điều tra, đánh giá tổng thể về các nguyên nhân như sử dụng nước ngầm, cấu trúc địa chất trong khu vực ở thời điểm hiện tại, để từ đó, đưa ra giải pháp toàn diện, đặc biệt là sẽ có một Nghị quyết của Bộ Chính trị về việc tăng cường vai trò và định hướng chiến lược địa chất.

Lan Anh