Giải pháp xanh
Tỉnh Hậu Giang nằm ở Trung tâm của vùng tây sông Hậu, có địa hình trũng thấp, lòng chảo, ảnh hưởng của hai chế độ thủy triều: Triều Biển Đông (bán nhật triều) và triều Biển Tây (nhật triều). Hậu Giang có hệ thống sông, kênh, rạch chằng chịt với hơn 473 km kênh cấp I; hơn 1.300 km kênh cấp II; gần 1.700 km kênh cấp III. Vì vậy, tỉnh Hậu Giang là vùng dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu - nước biển dâng.
Làm kè sinh thái ở huyện Châu Thành. |
Liên tiếp trong những năm qua, diễn biến của các loại hình thiên tai ngày càng phức tạp, đặc biệt tình hình sạt lở bờ sông, kênh diễn ra ngày càng khốc liệt, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Năm 2017, tận dụng đặc tính của cây tràm và cây bần khi trồng ven các tuyến sông, kênh, rạch để giữ phù sa, chống xói mòn đất, Chi cục Thủy lợi tỉnh đã nghiên cứu, kết hợp những tính toán khoa học rồi đưa vào thí điểm ba mô hình kè sinh thái chống sạt lở ở tuyến kênh cấp I, cấp II ở huyện Phụng Hiệp và thị xã Ngã Bảy, nhằm tìm ra một giải pháp tiết kiệm nhất để phòng sạt lở đất bờ sông, thích ứng với biến đổi khí hậu. Kết quả bước đầu rất khả quan, được người dân tin cậy và ứng dụng, bởi chi phí đầu tư thấp, nhưng mang lại hiệu quả tích cực.
Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Hậu Giang, Trần Thanh Toàn, cho biết: Kè sinh thái được xem là giải pháp xanh để phòng chống sạt lở, thích hợp thực hiện trên các tuyến sông, kênh ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, tùy khu vực có biên độ triều khác nhau, cấp kênh khác nhau, lưu lượng tàu thuyền lưu thông khác nhau mà có tính toán triển khai phù hợp.
Khi triển khai đúng hướng dẫn, kè sinh thái giúp chống sạt lở, đặc biệt trên các tuyến sông, kênh có trục giao thông chính, góp phần giảm kinh phí duy tu bảo vệ đường, xử lý các điểm đã sạt lở. Môi trường được bảo vệ do diện tích cây xanh tăng lên.
Mặt khác, góp phần xây dựng nông thôn mới, tạo điểm nhấn trong cách làm du lịch nông nghiệp. Về lâu dài, tạo mặt bằng gia cố mái kênh, thuận tiện trong việc nạo vét lòng kênh, vì đa số các tuyến kênh đã bồi lắng nhưng không có mặt bằng thi công.
Đặc biệt, xây dựng kè sinh thái có kinh phí rất thấp, huy động được sức dân, có sự tham gia của người dân, có tính xã hội hóa rất cao. Ngân sách chỉ mang tính kích thích định hướng cho việc triển khai mô hình.
Riêng người dân sẽ có thêm thu nhập khi tham gia mô hình, thu lợi từ cây trồng, chống lãng phí nguồn tài nguyên đất, thu nhập có thể tăng gấp đôi ba lần so với chi phí đầu tư ban đầu.
Hiệu quả bước đầu từ thực tiễn
Theo Chi cục Thủy lợi tỉnh Hậu Giang, từ ba mô hình kè sinh thái chống sạt lở ban đầu có tổng chiều dài khoảng 380m, toàn bộ kinh phí từ nguồn xã hội hóa, đến nay bà con đã nhân rộng lên gần 200km kè sinh thái.
Làm kè sinh thái ở huyện Phụng Hiệp. |
Tại thị trấn Búng Tàu, huyện Phụng Hiệp đã có hơn 100 hộ dân hưởng ứng mô hình này, chủ yếu ở hai tuyến kênh lớn là Búng Tàu và tuyến kênh Ngang.
Ông Nguyễn Trường Sanh, ở ấp Tân Phú A2, thị trấn Búng Tàu, kể rằng: Hai năm trước, tôi có làm mô hình này khoảng 10m dọc bờ kênh, chi phí khoảng một triệu đồng tiền múc đất, còn cây tràm được nhà nước hỗ trợ. Thấy hiệu quả nên tôi triển khai tiếp để bảo vệ hơn năm mét đất bờ sông. Giờ đây đã tạm yên tâm vì phần đất ven bờ sông khá ổn định, cây tràm bên trên đã lớn tạo bóng mát nhìn rất đẹp mắt. Nếu trên tuyến sông này ai cũng làm kè sinh thái thì quá tốt, hai bên bờ sông sẽ phủ một màu xanh mướt đẹp mắt.
Còn bà Nguyễn Thị Chi ở ấp Tân Phú, thị trấn Búng Tàu, kể: Hai năm trước, thấy tình hình sạt lở tới mé lộ, nên gia đình bà quyết định làm kè sinh thái theo hướng dẫn của cán bộ địa phương. Chi phí mướn cạp đất, mua tràm về cấy cho hơn 10m dài chưa tới hai triệu đồng, nhưng hiệu quả mang lại thiết thực. Bởi không còn sạt lở nữa, tràm bây giờ cũng đã lớn, một năm nữa là có thể đốn bán và trồng lại cây khác…
Theo ông Cao Văn Bồi, ở Tân Phú A2, thị trấn Búng Tàu: Kè mềm này vừa giúp chắn sóng, vừa giúp ổn định đất bờ sông. Nhờ vậy, con lộ bê-tông ở trên cũng an toàn hơn. Chứ tuyến kênh Búng Tàu này rộng, phương tiện thủy tải trọng lớn lưu thông nhiều mà không có cách hạn chế sóng đánh vào bờ thì lâu ngày dễ bị hàm ếch, sạt lở.
Ông Bồi cho biết thêm: “Trước nhà tôi có 30m kè, cũng làm lớp bảo vệ bên ngoài rồi bỏ đất vào trồng cây bên trên. Tôi không chỉ trồng tràm, mà còn kết hợp trồng thêm bần, đước, điên điển, cà na, thả lụt bình bên ngoài để hạn chế sóng lúc cây còn nhỏ. Vài tháng khi cà na, điên điển lớn lên mình thu hoạch bán cũng có tiền thêm”.
Kè sinh thái ở thị trấn Búng Tàu phát huy hiệu quả. |
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang Trương Cảnh Tuyên đánh giá: Mô hình kè sinh thái chống sạt lở rất phù hợp tinh thần Nghị quyết số 120 của Chính Phủ (về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu) và góp phần tăng tỷ lệ che phủ rừng và thân thiện với môi trường. Qua thực tế, cho thấy, vùng Phụng Hiệp, Long Mỹ, Vị Thanh, triển khai kè sinh thái sẽ phát huy hiệu quả tốt, đáp ứng đúng mục tiêu đề ra. Còn ở một số tuyến sông lớn vùng Ngã Bảy, Châu Thành cần nghiên cứu giải pháp phù hợp hơn. Năm 2020, tỉnh tỉnh cũng đã chỉ đạo đưa mô hình kè sinh thái này vào chỉ tiêu trong Chiến dịch Giao thông - Thủy lợi và trồng cây hằng năm, được chính quyền các cấp và người dân đồng tình ủng hộ cao.
Hiện nay, Chi cục Thủy lợi tỉnh kết hợp Trường đại học Cần Thơ đang nghiên cứu thực hiện Đề tài về kề sinh thái này có tên: “Giải pháp chống sạt lở bờ sông, kênh bằng kè mềm sinh thái trên địa bàn tỉnh Hậu Giang”, nhằm có cơ sở khoa học để tham mưu các cấp nhân rộng hơn nữa mô hình.
Do tính chất địa hình các tỉnh vùng ĐBSCL khá tương đồng, nên thời gian qua cũng có nhiều tỉnh bạn trong vùng đến tham quan học tập kinh nghiệm mô hình này.
Quy trình thực hiện công trình kè sinh thái gồm sáu bước: 1. Trước tiên điều tra “đỉnh triều” vào “đầu mùa khô”, vì lúc đó đỉnh triều thấp nhất trong năm vào khoản tháng 2 hằng năm tại nơi sạt lở. 2. Gia cố một hàng cừ tràm, tre (vật liệu địa phương) năm cây/m cách bờ kênh từ 2-3m tùy thuộc vị trí sạt lở, vải địa kỹ thuật, lưới cước có tác dụng giữ phù sa, chắn sóng tàu không ảnh hưởng đến cây trồng khi còn nhỏ; điều kiện cao trình đỉnh cừ gia cố “cao hơn” đỉnh triều “đầu mùa khô” từ 0,2 - 0,3 m tùy thuộc vào tải trọng và lưu lượng tàu. 3. Vét đất dưới kênh đắp vào tại nơi gia cố sạt lở; điều kiện cao trình mặt đất đắp “thấp hơn” đỉnh triều “đầu mùa khô”từ 0,1 - 0,2 m. 4. Trồng tràm chiều cao 0,5 - 0,6 m tại nơi tạo lớp đất đắp, quy cách hàng cách hàng, cây cách cây 0,2 m, tràm được tưới mỗi ngày khi đỉnh triều cao nhất, tràm có tác dụng chắn sóng mặt vào bờ và người dân có nguồn thu nhập sau ba đến bốn năm; sau lớp hàng tràm người dân trồng các loại cây tạo cảnh quan đẹp góp phần xây dựng nông thôn mới. 5. Trồng hàng bần cách nhau hai mét, cách hàng cừ gia cố khoảng 1m, cây bần có tác dụng làm cho máy kênh ổn định, chống sạt lở đối với vùng có biên độ triều hơn 2m; hoặc trồng hàng cây có giá trị kinh tế như: Cà na, dừa… vùng có biên độ triều dưới 2m; sau thời gian ba đến bốn năm thu hoạch cây tràm mang lại thu nhập người dân, lúc đó cây bần, cà na, dừa đã phát triển và sẽ bảo vệ máy kênh và chống sạt lở tốt hơn. 6. Với quy trình thực hiện trên hàng cừ tràm gia cố sẽ chắn được sóng của tàu, bảo vệ cây tràm, cây bần, cà na, dừa… lúc mới trồng được phát triển tốt; sau mùa khô khoảng sáu tháng lũ về “đỉnh triều mùa lũ sẽ dâng lên” khi đó cây tràm, cây bần, cà na, dừa… phát triển tốt. Khoảng hai đến ba năm sau, hàng cừ tràm gia cố sẽ tự hủy; cây tràm, cây bần, cà na, dừa… đủ khả năng chống sạt lở. |