Ứng dụng CN cao và tích hợp đa ngành để phát triển bền vững nuôi biển công nghiệp Việt Nam

Nuôi biển xa bờ là xu hướng phát triển chung trên thế giới và có khả năng tạo ra đột phá kinh tế. So với nuôi động vật trên cạn, nuôi biển được đánh giá cao hơn về hiệu quả kinh tế - môi trường do có năng suất cao.
Tiềm năng phát triển điện mặt trời trên hồ chứa thủy lợiBài 2: Cấp bách bảo tồn rừng và đa dạng sinh học tại Phú QuốcBài 1: Khám phá nền sinh học đa dạng tại Vườn quốc gia Phú Quốc

Nuôi biển – Xu hướng phát triển toàn cầu

Thế kỷ 21 là kỷ nguyên của kinh tế biển. Biển và đại dương chiếm 70% diện tích địa cầu, nhưng mới chỉ đóng góp khoảng 1,7% khối lượng thực phẩm của thế giới, trong đó, sản phẩm nuôi biển chỉ mới chiếm chưa đầy 0,5%. Nguồn lợi sinh vật của đại dương đang bị khai thác quá mức, mất khả năng tự tái tạo, ảnh hưởng rất xấu đến tính cân bằng của hệ sinh thái biển và đại dương. Vì thế, nhân loại cần canh tác biển và đại dương để phát triển cánh đồng cuối cùng của hành tinh trong thế kỷ 21.

Trong khi ấy, dân số ngày càng tăng nhanh, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm hải sản đang tăng cao và rất đa dạng, khiến cho mâu thuẫn cung-cầu về hải sản trên thị trường thế giới ngày càng trở nên gay gắt. Theo FAO, đến năm 2030, thế giới cần thêm 19 triệu tấn hải sản so với 2015 mới bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng. Dự báo đến năm 2050, thị trường thế giới cần sản lượng đạm động vật gấp 1,7 lần hiện nay, trong đó nguồn cung cấp chính là nuôi hải sản từ đại dương.

Nuôi biển xa bờ là xu hướng phát triển chung trên thế giới và có khả năng tạo ra đột phá kinh tế. So với nuôi động vật trên cạn, nuôi biển được đánh giá cao hơn về hiệu quả kinh tế-môi trường, do có năng suất cao hơn, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp hơn (FCR của cá biển sử dụng thức ăn viên chỉ từ 1,0 – 2,5; trong khi động vật trên cạn 4,0 - 8,0), lại ít gây tác hại tới môi trường. Ngoài cá, có thể phát triển nuôi với sản lượng rất lớn những loài thủy sản ăn lọc, tận dụng thức ăn tự nhiên, như các động vật thân mềm (hàu, vẹm, nghêu, sò, trai, ốc,…). Riêng trồng rong biển có thể đạt 400 kg protein/ha/năm (so với trồng cây trên đất chỉ thu 16kg/ha/năm) mà không hề tốn phân, thuốc bảo vệ thực vật và nước tưới, lại có tác dụng rất lớn làm giảm CO2 và hấp thu các tác nhân gây ô nhiễm khác trong khí quyển và đại dương.

ung dung cn cao va tich hop da nganh de phat trien ben vung nuoi bien cong nghiep viet nam
Ảnh minh họa.

Theo FAO, trong giai đoạn 2004 – 2008, mới có 93/165 quốc gia và vùng lãnh thổ có biển tiến hành hoạt động nuôi biển, với sản lượng trung bình hàng năm là 29.976.736 tấn. Tuy nhiên, gần như toàn bộ hoạt động nuôi biển hiện đang diễn ra ở những khu vực tương đối hẹp, kín sóng gió ở gần bờ, nơi diễn ra rất nhiều hoạt động kinh tế, công nghiệp, thương mại, quốc phòng, an ninh (như hàng hải, du lịch, khai thác dầu khí và khoáng sản, các khu bảo tồn biển…). Những hoạt động này mang tính mâu thuẫn, cạnh tranh, xung đột với nuôi biển, làm giảm đi đáng kể diện tích ven bờ dành cho nuôi biển.

Tiềm năng nuôi biển xa bờ là diện tích bề mặt biển nằm trong vùng EEZ, tức ở khoảng cách từ 3 đến 200 hải lý tính từ bờ, đáp ứng được các ngưỡng giới hạn về độ sâu, tốc độ dòng chảy và chi phí hiệu quả thích hợp với các phương pháp nuôi. Với các công nghệ nuôi biển hiện nay, khu vực đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí nói trên thường chỉ chiếm 0,1% tổng diện tích EEZ.

Kết quả đánh giá tiềm năng nuôi biển toàn cầu và nhiều quốc gia cho thấy tiềm năng nuôi biển xa bờ là rất lớn, ngay cả với trình độ công nghệ hiện tại. Đặc biệt, với đa dạng sinh học, tiềm năng nuôi biển xa bờ đối với các loài hải sản vùng nước cận nhiệt đới và nhiệt đới lớn hơn hẳn vùng nước ôn đới. FAO cho rằng ngay cả với diện tích rất nhỏ ấy cũng có thể đóng góp bền vững vào việc tăng sản lượng thực phẩm cho nhân loại. Năng suất nuôi cá biển (Ví dụ: Cá chim, cá vược, cá hồng Mỹ, cá giò) ở vùng nhiệt đới hiện tại là khoảng 9.900-12.000 tấn/km2. Như vậy, chỉ với 1.000 km2 biển (tương đương 0,1% diện tích vùng EEZ của Việt Nam) cũng đã có thể cho sản lượng 10-12 triệu tấn cá biển nuôi mỗi năm.

Trong tương lai, những tiến bộ công nghệ sẽ mở rộng đáng kể tiềm năng nuôi biển xa bờ. Thí dụ, việc tăng độ sâu của hệ thống neo đối với lồng và dây treo, từ giới hạn 100m lên 150m sẽ giúp mở rộng diện tích phù hợp để phát triển nuôi biển lên 31%, hay gần 4,2 triệu km2. Các trại nuôi thả trôi ngoài khơi hoặc được trang bị động cơ đẩy cũng có thể mở ra một khu vực nuôi biển rộng lớn trong vùng EEZ, đến 158 triệu km2 trên toàn cầu.

Chiến lược phát triển bền vững nuôi biển Việt Nam

Việt Nam là quốc gia hàng thứ 4 thế giới về nuôi trồng thủy sản. Từ năm 2007, sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam đã vượt trên sản lượng khai thác thủy sản. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vượt 9 tỉ USD năm 2018, đứng thứ 5 thế giới. Tuy nhiên, sản lượng và chất lượng hải sản khai thác từ biển ngày càng hạn chế, không thể đáp ứng được nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thủy sản. Riêng về hải sản, mức độ đáp ứng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến hải sản chỉ ở mức dưới 20% công suất thiết kế của nhà máy. Đói nguyên liệu đang là một nguyên nhân chính hạn chế hiệu quả của ngành chế biến xuất khẩu hải sản.

Việt Nam có rất nhiều lợi thế để phát triển nuôi biển. Chuyển dần từ việc khai thác sang nuôi biển là hướng phát triển bền vững và mang tính đột phá cho kinh tế và quốc phòng của đất nước. Trong vài chục năm qua, nuôi biển Việt Nam đã tự phát khởi đầu, cả nước có khoảng 50.000 hộ ngư dân nuôi hải sản ở vùng ven bờ, với quy mô nhỏ, manh mún, công nghệ thủ công lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, phát sinh dịch bệnh, hiệu quả kinh tế thấp và rất không bền vững. Việt Nam đang ở điểm khởi đầu của nuôi biển công nghiệp ở vùng xa bờ và đại dương, với nhiều thách thức.

Thách thức:

1. Thiếu kế hoạch phát triển nuôi biển quốc gia, thiếu chính sách khuyến khích và ưu tiên nhằm thu hút đầu tư của cộng đồng doanh nghiệp.

2. Công cụ quản lý nhà nước về biển còn yếu và không có cơ chế đồng quản lý hiệu quả.

3. Lực lượng sản xuất nuôi biển còn quá mỏng, trình độ công nghệ còn lạc hậu, mới có rất ít doanh nghiệp nuôi biển.

4. Hệ thống cảnh báo và kiểm soát an ninh còn lạc hậu, thách thức lớn cho việc nuôi xa bờ.

5. Rủi ro do ô nhiễm môi trường biển cao, suy giảm nguồn lợi biển ngày càng nghiêm trọng, quản lý môi trường biển lỏng lẻo.

6. Quan hệ liên kết trong chuỗi giá trị nuôi biển (giữa trại nuôi với hệ thống cung cấp thức ăn, giống, chế biến, tiêu thụ, phân phối,…) chưa được xây dựng.

Phát triển nuôi biển công nghiệp là giải pháp chiến lược tạo đột phá để giải quyết về cơ bản những hạn chế đó, chủ động tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công nghiệp thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm, phát điện, phân bón sinh học, giảm phát thải khí nhà kính, quản lý tốt hơn môi trường biển, tạo công ăn việc làm mới cho hàng chục vạn ngư dân, tăng cường sự hiện diện thường xuyên của ngư dân trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam theo phương thức rất hòa bình và thân thiện, đưa Việt Nam trở thành cường quốc trên thế giới về nuôi biển. Cần xác định rõ tầm nhìn và hoạch định chiến lược để cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết 36- NQ/TW của Đảng về Chiến lược Phát triển Bền vững Kinh tế biển.

Thực hiện nguyện vọng của cộng đồng doanh nghiệp và các cơ sở nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ nuôi biển, Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam (VSA) đã khởi thảo trình Thủ tướng Chính phủ và với sự chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT giao cho Hiệp hội VSA phối hợp với Tổng Cục Thủy sản xây dựng Chiến lược Phát triển Nuôi biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045, hiện đang được Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt.

Mục tiêu:

Sắp xếp lại để ổn định vùng nuôi có hiệu quả ven biển, đảo gần bờ, bảo đảm môi trường sinh thái; Phát triển mạnh theo hướng bền vững nuôi biển công nghiệp vùng xa bờ, hình thành ngành sản xuất hàng hóa tập trung, với quy mô lớn, công nghệ ngày càng hiện đại, năng suất cao, sản phẩm đa dạng, có khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới, gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái, quốc phòng, an ninh vùng biển, đảo của đất nước, góp phần thực hiện thành công Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.

Cụ thể đến 2030: Diện tích nuôi biển đạt 300.000 ha, thể tích lồng nuôi 10 triệu m3, sản lượng đạt 1.750.000 tấn, giá trị xuất khẩu hải sản nuôi đạt 4 - 6 tỉ USD. Trong đó, riêng về nuôi biển xa bờ có sản lượng 690.000 tấn (cá biển 450.000 tấn, rong biển 100 tấn, nhuyễn thể 100.000 tấn, giáp xác 20.000 tấn, sản phẩm khác 20.000 tấn).

Tầm nhìn đến năm 2045: Việt Nam có nền công nghiệp nuôi biển tiên tiến, phát triển bền vững, với công nghệ hiện đại và phương thức quản lý khoa học, trở thành bộ phận chính của kinh tế biển nước ta, đưa Việt Nam trở thành quốc gia hàng đầu về công nghiệp nuôi biển trong khối ASEAN, đứng trong top 5 trên thế giới về sản lượng và giá trị xuất khẩu hải sản nuôi. Sản lượng nuôi biển đạt 3,0-4,0 triệu tấn/năm; Giá trị thương mại và xuất khẩu trên 10 tỉ USD.

ung dung cn cao va tich hop da nganh de phat trien ben vung nuoi bien cong nghiep viet nam
Nuôi biển xa bờ là xu hướng phát triển chung trên thế giới. Ảnh minh họa.

Nuôi biển: Tiềm năng các ngành hành chính

Với vị trí địa lý chiến lược, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có tính đa dạng sinh học cao, nếu có chính sách thích hợp tập trung đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao trong canh tác biển, Việt Nam có những tiềm năng phát triển vô cùng to lớn, bao gồm những ngành hàng chủ yếu sau đây, với các chỉ tiêu phát triển có thể cao hơn nhiều so với những mục tiêu nêu trên:

1. Cá biển: Phát triển nuôi những loài cá biển có giá trị kinh tế cao (cá chim, cá giò, cá chẽm, cá hồng Mỹ, cá mú, cá ngừ, cá cam, cá tráp, ...), sử dụng lồng nổi HDPE (chịu được bão cấp 12), các loại lồng chìm và bán chìm đa dạng, hoạt động ổn định trong mọi điều kiện thời tiết ở vùng biển sâu. Mục tiêu năm 2030 đạt 600.000 tấn cá biển nuôi, giá trị nguyên liệu 3-4 tỉ USD.

2. Cá nước lợ: Tận dụng tiềm năng các vùng cửa sông, phát triển mạnh nuôi cá nước lợ có giá trị cao (cá nhụ, cá đối mục, cá dìa, cá măng,...) theo quy mô công nghiệp trong các khu vực ven biển, tạo sinh kế ổn định cho ngư dân các tỉnh ven biển, góp phần cải tạo môi trường vùng ao nuôi tôm đã bị thoái hóa. Mục tiêu năm 2030 đạt 200.000 tấn cá nước lợ, giá trị 1 tỉ USD.

3. Tôm hùm và giáp xác biển: Nghiên cứu phát triển, du nhập và tiếp tục hoàn thiện công nghệ sinh sản nhân tạo, tổ chức ương nuôi giống chất lượng cao và sử dụng thức ăn nhân tạo phục vụ nuôi tôm hùm, tôm mũ ni và các loài khác giá trị kinh tế cao trong lồng trong biển hoặc trong các trại với hệ thống RAS trên bờ. Mục tiêu 2030 đạt 30-50.000 tấn, giá trị 1 tỉ USD.

4. Nuôi và chế tác ngọc trai: Phát triển mạnh nuôi công nghiệp tập trung 4 loài trai ngọc có giá trị kinh tế cao (Pinctada martensii, P. margaritifera, P. maxima và Pteria penguin) trong các vùng ven biển ít sóng gió; đồng thời phát triển công nghiệp chế tác và thương mại ngọc trai. Mục tiêu năm 2030 đạt 200 tấn ngọc (kích thước 7,0 - 10 mm), doanh thu thô 3-5 tỉ USD, chế biến thành thương phẩm có thể đạt 8 tỉ USD.

5. Các loài nhuyễn thể khác: Phát triển mạnh đầu tư nghiên cứu sản xuất giống và nuôi một số đối tượng xuất khẩu, như bào ngư, sò huyết, điệp quạt, ốc hương, hầu, vẹm xanh, tu hài,... kết hợp với bảo tồn một số loài quý hiếm như: Bàn mai, trai tai tượng, ốc gai, ốc đụn, ốc mặt trăng, ốc tù và,...Mục tiêu năm 2030 đạt sản lượng 500.000 tấn, giá trị 2 tỉ USD.

6. Rong biển: Chú trọng những loài có năng suất và giá trị cao (rong Nho, rong Câu, rong Sụn, rong Mơ) để làm thực phẩm và sản xuất các keo rong như carrageenan, agar, alginate,...cùng những loài rong có đặc tính sinh học đặc biệt phục vụ công nghiệp dược phẩm, mỹ phẩm hữu cơ. Trồng rong còn hấp thu khí nhà kính, hấp thụ các chất ô nhiễm, làm sạch nước, cản sóng biển xâm thực bờ, tạo môi trường cho các đàn cá trú ẩn, sinh sôi nảy nở. Mục tiêu năm 2030 đạt sản lượng 1 triệu tấn rong trồng, giá trị các sản phẩm rong sau chế biến và thương mại đạt 1 tỉ USD.

7. Nuôi vi tảo biển: Nuôi vi tảo ở quy mô công nghiệp tạo sinh khối để làm thực phẩm và làm nhiên liệu sinh học (bio-diesel) phát điện là giải pháp sinh học tiết kiệm nhất và sạch nhất để tạo nguồn nhiên liệu và năng lượng xanh cho đất nước. Giải pháp này còn hấp thu CO2 từ khí quyển, đóng góp vào việc ngăn chặn hiện tượng nóng lên của Trái đất. Liên doanh Tập đoàn Beehive Venture Group (Mỹ) và Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư Năng lượng Xanh Việt Nam vừa đề nghị UBND tỉnh Khánh Hòa cho đầu tư cơ sở nuôi tảo biển để chế tạo nhiên liệu sinh học chạy nhà máy phát điện công suất 1.500 MW, chỉ sử dụng 242 ha đất và mặt nước biển.

8. Các loại hải đặc sản khác: Phát triển nuôi các loài thân mềm, động vật đáy, động vật da gai và các loại hải đặc sản có giá trị kinh tế cao khác, như cua biển, ghẹ, mực ống, bạch tuộc, hải sâm, hải miên, cá cảnh biển,... Mục tiêu năm 2030 đạt sản lượng 100.000 tấn.

9. Công nghiệp chế biến hải sản, tận dụng phụ liệu, phế liệu hải sản: Nếu được cung cấp đầy đủ nguyên liệu từ nuôi biển, công nghiệp chế biến hải sản hiện có của Việt Nam sẽ phát huy được năng lực thiết bị, đưa xuất khẩu hải sản lên tầm cao mới. Đồng thời, cần tăng cường du nhập và phát triển ứng dụng công nghệ vi sinh và các công nghệ cao khác để chiết suất các tinh chất, vi chất từ phế liệu chế biến và phụ phẩm hải sản, phục vụ cho y dược, hóa mỹ phẩm và các ngành công nghiệp khác. Mục tiêu năm 2030 tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản lên 20-25 tỉ USD; Tận dụng 50- 70% phế liệu hải sản, để sản xuất sản phẩm giá trị cao.

Thể chế phát triển nuôi biển

Phát triển nuôi biển công nghiệp Việt Nam là một cuộc cách mạng mang ý nghĩa đột phá cho kinh tế biển Việt Nam. Nội hàm chủ yếu của cuộc cách mạng đó tập trung chung quanh “tam giác thể chế phát triển”, với Chủ thể là Doanh nghiệp; Động lực là Công nghệ tiên tiến; và Phương thức chủ yếu là Tích hợp đa ngành.

1. Chủ thể: Cộng đồng doanh nghiệp

Khác với Nghề cá Nhân dân, chủ thể của Nghề cá Công nghiệp là doanh nghiệp. Cần xây dựng thể chế, chính sách tài chính và cơ sở hạ tầng nhằm phát triển nhanh số lượng, quy mô và chất lượng các doanh nghiệp để dẫn dắt sự nghiệp nuôi biển công nghiệp Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, có ba phương thức chính:

a) Lựa chọn các HTX, hộ gia đình nuôi biển truyền thống đủ năng lực, xây dựng đề án trại nuôi biển để được giao mặt nước biển và cho vay vốn ngân hàng, hỗ trợ đào tạo nhân lực. Ví dụ: Để đạt mục tiêu 600.000 tấn cá biển nuôi vào năm 2030, có thể lựa chọn 2% số các chủ trại nuôi thủ công hiện có, phát triển 1.000 trại nuôi cá biển công nghiệp quy mô nhỏ. Mỗi trại có 20 lồng tròn HDPE, đường kính 20-25 m, được trang bị xà lan phun thức ăn và các trang thiết bị phụ trợ cùng cơ sở hậu cần trên bờ, sản lượng 600 tấn/năm, vốn đầu tư toàn bộ 0,8 – 1,0 triệu USD, giá trị sản lượng cửa trại là 1,5 triệu USD, hiệu quả 30-35% tổng doanh thu; Năng suất lao động trung bình của trại 100.000 – 150.000USD/người/năm.

b) Hỗ trợ các doanh nghiệp (ngành thủy sản và các ngành khác, kể cả các lực lượng quốc phòng, an ninh) đầu tư xây dựng cơ sở nuôi biển công nghiệp. Hiện nay, dẫu quá trình hình thành ngành nuôi biển công nghiệp mới bắt đầu, đã có một số doanh nghiệp thủy sản, doanh nghiệp bất động sản,...đầu tư vào các trại nuôi biển như một đầu tư khởi nghiệp tiềm năng lớn, lợi nhuận cao. Đặc biệt, cần ưu tiên khuyến khích và hướng dẫn các doanh ngiệp chế biến hải sản mở rộng chuỗi cung ứng bằng cách đầu tư vào đầu nguồn, chủ động tạo ra nguyên liệu cung cấp cho mình.

c) Chuyển các viện, phân viện và trung tâm nghiên cứu hải sản thành doanh nghiệp KHCN. Các doanh nghiệp KHCN này sẽ làm nhiệm vụ chủ động chọn lọc, tiếp cận, tiếp thu và phát triển các công nghệ nuôi biển tiên tiến của nước ngoài, đảm nhiệm các khâu sản xuất giống, vật tư và dịch vụ chuyên nghiệp để phục vụ chuỗi giá trị của cộng đồng doanh nghiệp nuôi biển công nghiệp.

2. Động lực: Công nghệ tiên tiến

Nuôi biển công nghiệp xa bờ gắn chặt với việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến. Để công nghiệp hóa - hiện đại hóa chuỗi giá trị nuôi biển công nghiệp gồm nhiều khâu, các doanh nghiệp trong từng khâu phải lựa chọn các công nghệ tiên tiến thích hợp và phối hợp đồng bộ với các khâu khác để có hiệu quả cho toàn chuỗi. Cụ thể chỉ xin nêu một vài công nghệ chủ yếu cần được phát triển mạnh:

a) Công nghệ sinh sản nhân tạo: Phát triển du nhập và ứng dụng công nghệ hiện đại sinh sản nhân tạo các giống loài hải sản có giá trị cao, cung cấp đủ giống chất lượng tốt cho nhu cầu nuôi công nghiệp (thí dụ: riêng cá biển nuôi cần ít nhất 1,0-1,5 tỉ cá giống cỡ lớn mỗi năm); Hỗ trợ đầu tư các trại giống quy mô lớn ứng dụng công nghệ tuần hoàn khép kín (RAS);

b) Công nghệ chế tạo phương tiện nuôi biển công nghiệp: Phát triển thiết kế, chế tạo, sản xuất các thiết bị, phương tiện, công cụ phục vụ nuôi biển bằng các loại vật liệu đa dạng (Ví dụ: Riêng nuôi cá biển cần khoảng 20.000 lồng nổi bằng HDPE, các hệ lồng chìm, bán chìm bằng thép hợp kim, đồng, chất dẻo, composite,...);

c) Công nghệ sản xuất và cung cấp thức ăn: Phát triển các nhà máy sản xuất thức ăn công nghiệp (đến năm 2030 riêng cá biển nuôi cần sản lượng 1,5-3 triệu tấn thức ăn viên mỗi năm); Ứng dụng các men vi sinh và chế phẩm sinh học cho thức ăn; Chế tạo các phương tiện tích trữ và phun thức ăn bằng khí nén cho từng lồng nuôi cũng như công nghệ sản xuất thức ăn nuôi hải sản ngay trên biển;

d) Công nghiệp thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển sản phẩm nuôi biển: Phát triển các công nghệ thu hoạch bằng bơm hút cá chuyên dụng (thay vì đánh lưới), các công nghệ tiên tiến bảo quản và vận chuyển sống và tươi các hải sản giá trị cao, công nghệ giữ siêu tươi và cấp đông nhanh trên biển; Công nghệ chế biến các sản phẩm giá trị gia tăng làm sẵn và ăn liền; Các công nghệ tinh chiết các chế phẩm giá trị cao phục vụ y khoa, mỹ phẩm, dược phẩm.

e) Công nghệ sinh hóa chiết suất và tinh chế các chế phẩm sinh học, sinh hóa có giá trị cao từ các hải sản và tận dụng tối đa phụ liệu, phế liệu hải sản, tiến đến xây dựng một ngành công nghiệp không chất thải.

f) Công nghệ số tự động hóa nuôi biển: Cần phát triển mạnh các công nghệ IoT và AI ứng dụng cho nuôi biển trong việc tự động quan sát lưới, tình trạng vật nuôi, theo dõi phân tích tính ăn của vật nuôi, tự động điều chỉnh việc cung cấp thức ăn, vị trí lồng bè, thu thập thông số môi trường biển, cảnh báo tình hình an ninh,...

3. Phương thức: Tích hợp đa ngành

Một trong những điểm yếu của Việt Nam là thiếu sự phối hợp. Phát triển nuôi biển công nghiệp không phải là nhiệm vụ của riêng ngành thủy sản hay Bộ Nông nghiệp và PTNT, mà là sự nghiệp chung của tất cả các ngành kinh tế biển và nhiều ngành khác. Phương thức tích hợp đa ngành sẽ biến nuôi biển công nghiệp thành “dây lạt xanh” mềm mại và bền chặt để kết nối, huy động và tập trung các nguồn lực tổng hợp thực hiện có hiệu quả và phát huy tác dụng của cuộc cách mạng to lớn này.

a) Ngành nuôi hải sản: Cần áp dụng phổ cập công nghệ nuôi đa loài tích hợp (IMTA) trong cùng một khu vực biển (cá, giáp xác, nhuyễn thể, rong biển) để tận dụng tối đa chuỗi thức ăn và tương tác có lợi giữa các loài nuôi, vừa giảm được sức tải môi trường, hạn chế ô nhiễm biển. Nuôi biển cũng cần tích hợp giữa nuôi biển trên biển (ở đới ven bờ, xa bờ, viễn dương), nuôi trong lòng biển (tầng mặt, tầng giữa, tầng đáy và trên nền đáy biển) và nuôi biển trên bờ.

b) Ngành dầu khí: Cần phối hợp với nuôi biển nghiên cứu các phương án khả thi sử dụng các dàn khoan dầu khí trên biển đã khai thác hết làm các trung tâm dịch vụ hậu cần cho nuôi biển công nghiệp xa bờ trong khu vực biển sâu chung quanh các dàn khoan, vừa giảm được chi phí tháo dỡ, vừa tăng hiệu quả đầu tư.

c) Ngành du lịch: Cần tổ chức việc đa dạng hóa các hoạt động du lịch biển kết hợp với các cơ sở nuôi biển công nghiệp xa bờ, vừa tăng doanh thu du lịch vừa hỗ trợ cho nuôi biển công nghiệp.

d) Ngành cơ khí đóng tàu: Nuôi biển công nghiệp tạo ra một nhu cầu rất lớn cho ngành đóng tàu đang rất thiếu thị trường, mang lại những đơn hàng với hàng nghìn chiếc xà lan, tàu dịch vụ hậu cần và hàng loạt thiết bị chuyên dùng cần thiết khác, sẽ thổi một làn gió mới hồi sinh ngành công nghiệp đóng và sửa tàu nước ta.

e) Ngành năng lượng: Cần tổ chức việc tận dụng các hệ thống cơ sở hạ tầng của các dự án điện gió để phát triển vùng nuôi trồng hải sản theo các mô hình IMTA với các loài thích hợp với từng vùng sinh thái; Nghiên cứu các giải pháp phát điện bằng năng lượng tái tạo trên biển phục vụ nuôi biển và phát điện bằng sinh khối vi tảo.

f) Ngành quốc phòng – an ninh: Các hải đoàn và đơn vị thuộc Tổng Cục Kinh tế Quốc phòng cần tổ chức nghiên cứu đầu tư Chuỗi liên hợp lồng nuôi công nghiệp biển khơi gồm hệ thống các lồng bằng thép hợp kim, đường kính 50-60m, chiều cao 30-40m, có khả năng chịu đựng mọi điều kiện thời tiết, được trang bị hệ thống cảm biến đa mục tiêu, vừa nuôi cá biển tạo ra giá trị kinh tế cao, vừa thu thập các thông tin về biển, vừa làm tuyến tiền tiêu, bảo vệ an ninh cho vùng xa bờ và tuyến hải đảo, kết hợp chặt chẽ các hoạt động nuôi biển với việc giữ gìn an ninh tổ quốc.

KIẾN NGHỊ

Kiến nghị tổ chức xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia Phát triển Nuôi biển Công nghiệp đến năm 2030, thiết lập khung chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư phát triển cộng đồng doanh nghiệp nuôi biển (giao quyền sử dụng, cho thuê mặt nước biển, hỗ trợ lãi suất, tiếp cận vốn tín dụng trung dài hạn, ưu đãi thuế); Hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các chuỗi giá trị nuôi biển (từ sản xuất con giống, thức ăn, nuôi trồng, thu hoạch, bảo quản, vận chuyển, chế biến, xuất nhập khẩu, phân phối, dịch vụ), cơ chế khuyến khích tích hợp đa ngành và hợp tác quốc tế để tranh thủ các công nghệ hiện đại, bảo đảm khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.

Cần xây dựng đề án thành lập Bộ Biển và Thủy sản để thống nhất quản lý nhà nước về sử dụng, bảo vệ và tái tạo tài nguyên sinh vật, môi trường biển và kinh tế thủy sản, trên cơ sở sáp nhập Tổng cục Biển và Hải đảothuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường và Tổng cục Thủy sản thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT, cùng một số cơ quan hữu quan khác.

Cộng đồng 180 doanh nghiệp, các tổ chức KHCN, các nhà khoa học và chuyên gia thành viên của Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam (VSA) nhận thức rằng Việt Nam đang đứng trước thời cơ vàng để phát triển nuôi biển công nghiệp, tiến ra làm chủ vùng đặc quyền kinh tế rộng gấp ba diện tích đất liền, làm giàu cho dân, đưa nước ta thành quốc gia hàng đầu thế giới về nuôi biển. Chúng tôi tin tưởng sâu sắc rằng Đảng và Chính phủ sẽ hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức KHCN biển Việt Nam tận dụng có hiệu quả thời cơ đó.

PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng
Theo Tạp chí KTMT số 153 - Tháng 8/2019