Với đà tăng trưởng này, các chuyên gia của GWEC dự báo, công suất điện gió ngoài khơi toàn cầu sẽ nhảy vọt từ 29,1 GW vào cuối năm 2019 lên đến mức hơn 234 GW vào năm 2030, dẫn đầu là khu vực châu Á –Thái Bình Dương trong khi châu Âu vẫn sẽ duy trì đà phát triển mạnh.
Động lực cho cuộc phục hồi xanh hậu Covid-19-19
Báo cáo chỉ ra, năm 2019 là năm phát triển mạnh mẽ nhất ngành điện gió ngoài khơi từng ghi nhận, với mức tăng 6,1 GW công suất mới trên toàn thế giới, nâng tổng lắp đặt tích lũy toàn cầu lên 29,1 GW. Ông Ben Backwell, Giám đốc điều hành của GWEC đánh giá: Điện gió ngoài khơi đang thực sự mở rộng trên toàn cầu. Đó là nhờ chính phủ các nước trên thế giới nhận ra vai trò của công nghệ trong việc khởi động phục hồi kinh tế hậu Covid-19 thông qua đầu tư quy mô lớn, tạo công ăn việc làm và phát triển kinh tế cho các cộng đồng ven biển.
Điện gió ngoài khơi đang phát triển mạnh trên thế giới trong những năm gần đây. |
Trong thập kỷ tới, chúng ta sẽ thấy các thị trường điện gió ngoài khơi mới nổi như Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam được triển khai một cách toàn diện, đồng thời sẽ chứng kiến các tuabin ngoài khơi đầu tiên được lắp đặt tại một số quốc gia khác ở Châu Á, Châu Mỹ Latinh và Châu Phi.
“Đến nay điện gió ngoài khơi đã cho thấy mình là một công nghệ phi carbon giá cả phải chăng và dễ dàng nhân rộng, và cơ hội tối đa hóa tiềm năng tăng trưởng của ngành phụ thuộc vào hành động hợp tác giữa chính phủ và ngành công nghiệp trong việc thiết kế thị trường, như đặt ra các mục tiêu công suất rõ ràng, tiến hành lên kế hoạch dài hạn cho phát triển cơ sở hạ tầng và các nhu cầu về lao động. Có rất nhiều bài học chúng ta có thể học hỏi từ 30 năm phát triển điện gió ngoài khơi ở châu Âu để đảm bảo những thị trường mới trên toàn cầu cũng đạt được thành công và phát triển lâu dài, vì hiện nay chúng ta chỉ mới bước đầu khai thác trọn vẹn tiềm năng năng lượng sạch của điện gió ngoài khơi” - Ông Ben Backwellnói thêm.
GWEC dự báo, khu vực điện gió ngoài khơi sẽ tạo ra 900.000 việc làm trong thập kỷ tới - và con số này chắc chắn sẽ còn tăng lên nếu các nhà hoạch định chính sách đưa ra các chiến lược phục hồi giúp đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tăng trưởng của ngành. Hơn nữa, 1 GW năng lượng gió ngoài khơi đồng nghĩa chúng ta tránh được 3,5 triệu tấn CO2 – cho thấy đây là công nghệ quy mô lớn có hiệu quả nhất hiện có giúp tránh phát thải khí carbon và thay thế nhiên liệu hóa thạch tại nhiều nơi trên thế giới.
Thị trường mới nổi ở châu Á – Thái Bình Dương
Thị trường điện gió ngoài khơi toàn cầu mỗi năm tăng trưởng trung bình 24% kể từ năm 2013. Châu Âu vẫn là thị trường lớn nhất cho điện gió ngoài khơi tính đến cuối năm 2019, chiếm 75% tổng công suất lắp đặt toàn cầu. Châu lục này sẽ tiếp tục dẫn đầu về điện gió ngoài khơi, với mục tiêu đầy tham vọng 450 GW vào năm 2050, đến từ các dự án lắp đặt mới tại Anh, Hà Lan, Pháp, Đức, Đan Mạch và Ba Lan, với một số thị trường EU khác cũng đạt sản lượng hai chữ số.
Bắc Mỹ hiện chỉ có 30 MW công suất điện gió ngoài khơi đang hoạt động vào cuối năm 2019, nhưng khu vực này sẽ tăng tốc triển khai trong những năm tới, với 23 GW dự báo sẽ được lắp đặt vào năm 2030. Phần lớn của mức tăng trưởng này sẽ đến từ Hoa Kỳ nơi ngành công nghiệp này vừa chớm nở, và chúng ta có thể hy vọng được chứng kiến các dự án quy mô lớn sẽ hoà lưới vào năm 2024 tại quốc gia này.
Báo cáo nhấn mạnh ngành công nghiệp này phát triển sôi động ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhờ các quốc gia nâng tham vọng, dẫn đầu là Trung Quốc, với 52 GW công suất điện gió ngoài khơi mới dự kiến sẽ được lắp đặt vào năm 2030. Đài Loan sẽ trở thành thị trường điện gió ngoài khơi lớn thứ hai tại Châu Á sau Trung Quốc đại lục, với mục tiêu 5,5 GW vào năm 2025 và thêm 10 GW vào năm 2035. Các thị trường khác trong khu vực cũng bắt đầu mở rộng quy mô, với Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc dự kiến sẽ lắp đặt lần lượt là 5,2 GW, 7,2 GW và 12 GW công suất điện gió ngoài khơi .
Để điện gió nổi ngoài khơi sẽ đạt thương mại hóa hoàn toàn vào năm 2030, ít nhất 6 GW sẽ được lắp đặt trên toàn cầu. Công nghệ tuabin cũng được dự báo sẽ cải thiện cả về hiệu suất và độ bền, dẫn đến giảm Chi phí sản xuất điện quy dẫn (LCOE) và tăng khả năng tiếp nhận. GWEC đang hợp tác chặt chẽ với Ngân hàng Thế giới và Chương trình Hỗ trợ Quản lý Năng lượng ESMAP để thực hiện Chương trình Phát triển Điện gió Ngoài khơi, trong đó sẽ bao gồm một chuyến tham quan nghiên cứu ảo về điện gió ngoài khơi dành cho các nhà hoạch định chính sách tại 20 thị trường mới nổi vào tháng 9/2020.