Theo các nhà khoa học, tài nguyên năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất xuất phát từ hai nguồn chủ yếu: Năng lượng mặt trời và năng lượng lòng đất.
Năng lượng mặt trời tạo tồn tại ở các dạng chính: Bức xạ mặt trời, năng lượng sinh học (sinh khối động thực vật), năng lượng chuyển động của khí quyển và thủy quyển (gió, sóng, các dòng hải lưu, thủy triều, dòng chảy sông...), năng lượng hóa thạch (than, dầu, khí đốt, đá dầu). Năng lượng lòng đất gồm nhiệt lòng đất biểu hiện ở các các nguồn địa nhiệt, núi lửa và năng lượng phóng xạ tập trung ở các nguyên tố như U, Th, Po...
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của cả nước, các hoạt động khai thác tài nguyên năng lượng đã và đang góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới đất nước, góp phần phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, hoạt động khai thác năng lượng đã và đang đe dọa nghiêm trọng đến môi trường, đe đọa các hệ sinh thái tự nhiên, tàn phá môi trường nước và không khí.
Vậy các hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên năng lượng đang phá hủy môi trường như thế nào?
Thứ nhất, than đá là nguồn năng lượng chủ yếu của loài người với tổng trữ lượng trên 700 tỉ tấn, có khả năng đáp ứng nhu cầu con người khoảng 180 năm. Tuy nhiên, hiện nay việc khai thác than đá bằng phương pháp lộ thiên tạo nên lượng đất đá thải lớn, ô nhiễm bụi, ô nhiễm nước, mất rừng.
Trong khi đó, phương pháp khai thác hầm lò lại khiến mất 50% trữ lượng, gây lún đất, ô nhiễm nước, tiêu hao gỗ chống lò và gây các tai nạn hầm lò. Còn phương pháp chế biến và sàng tuyển than tạo ra lượng bụi và nước thải lớn chứa than và các kim loại nặng.
Bên cạnh đó, quá trình đốt than còn tạo ra khí SO2, CO2. Theo tính toán một nhà máy nhiệt điện chạy than công suất 1.000 MW hàng năm thải ra môi trường 5 triệu tấn CO2, 18.000 tấn N0X, 11.000 - 680.000 tấn phế thải rắn. Trong thành phần chất thải rắn, bụi, nước thải thường chứa kim loại nặng và chất phóng xạ độc hại.
Thứ hai, quá trình khai thác dầu và khí đốt trên thềm lục địa hiện nay đang gây ra tình trạng sụt lún đất, ô nhiễm dầu đối với đất, không khí, nước. Khai thác trên biển gây ô nhiễm biển, ước tính 50% lượng dầu ô nhiễm trên biển gây ra là do các hoạt động khai thác trên biển.
Ngoài ra, chế biến dầu gây ô nhiễm dầu và kim loại nặng kể cả kim loại phóng xạ. Ðốt dầu khí tạo ra các chất thải khí tương tự như đốt than.
Thứ ba, thủy năng được coi là một nguồn năng lượng sạch. Tổng trữ lượng thế giới 2.214.000 MW, riêng Việt Nam 30.970 MW chiếm 1,4% tổng trữ lượng thế giới. Tuy nhiên, việc xây dựng các hồ chứa nước lớn tạo ra các tác động môi trường như động đất kích thích, thay đổi khí hậu thời tiết khu vực, mất đất canh tác, tạo ra lượng CH4 do phân hủy chất hữu cơ lòng hồ. Đồng thời, tạo ra các biến đổi thủy văn hạ lưu, tăng độ mặn nước sông, ảnh hưởng đến sự phát triển của các quần thể cá trên sông, tiềm ẩn tai biến môi trường.
Thứ tư, năng lượng hạt nhân được biết đến là nguồn năng lượng giải phóng trong quá trình phân hủy hạt nhân các nguyên tố U, Th hoặc tổng hợp nhiệt hạch. Theo tính toán, năng lượng giải phóng ra từ 1 g U235 tương đương với năng lượng do đốt 1 tấn than đá.
Bên cạnh lợi ích mà nguồn năng lượng hạt nhân mang lại (như không tạo nên các loại khí nhà kính như CO2, bụi) thì các nhà máy điện hạt nhân hiện nay là nguồn gây nguy hiểm lớn về môi trường do chất thải phóng xạ, khí, rắn, lỏng và các sự cố nhà máy. Sự cố tại nhà máy điện hạt nhân Checnobưn Liên Xô là một ví dụ điển hình.
Ngoài ra, các nguồn năng lượng khác, như gió, bức xạ mặt trời, thủy năng được xếp vào loại năng lượng sạch có công suất bé. Do đó tích hợp cho một số khu vực có trữ lượng phong phú và xa các nguồn năng lượng truyền thống khác như các hải đảo.
Đối với nguồn nhiên liệu từ gỗ, củi thích hợp cho sử dụng quy mô nhỏ, và nền kinh tế công nghiệp kém phát triển; Địa nhiệt thích hợp với các vùng có núi lửa và hoạt động địa chất mạnh như Italia, Ailen, Kamchatka (Nga).