Giảm 107,725 tấn CO2
Được thực hiện từ năm 2012-2020 tại Cà Mau, Bến Tre và Trà Vinh, dự án MAM do Bộ Môi trường, Bảo tồn thiên nhiên và An toàn hạt nhân Cộng hòa Liên Bang Đức (BMU) nhằm cải thiện sinh kế cho cộng đồng dễ bị tổn thương ven biển và đóng góp cho công tác thích ứng, giảm thiểu biến đổi khí hậu.
Dự án hướng đến mục tiêu nuôi tôm kết hợp dưới tán rừng để xây dựng ngành nuôi tôm bền vững. Từ đó, bảo vệ, phát triển và gia tăng độ che phủ rừng trong vuông tôm, cải thiện năng suất tôm nuôi thông qua ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất.
MAM hướng đến mục tiêu nuôi tôm kết hợp dưới tán rừng, để xây dựng ngành nuôi tôm bền vững. (Ảnh: IUCN) |
Tính đến nay, MAM đã góp phần giảm được 107,725 tấn CO2 từ năm 2016 – 2018, bảo vệ 15,600 hecta diện tích rừng ngập mặn, tập huấn cho 5,617 nông dân, cấp chứng chỉ cho 3,200 nông dân, xây dựng 1,000 nhà vệ sinh đạt chuẩn, thành lập 80 tổ chức nông dân, trồng lại 80 hecta rừng ngập mặn, thiết lập 60 trang trại mẫu,… đặc biệt là Nghị định 156 của Chính phủ thành lập mô hình tôm rừng tích hợp trong khuôn khổ Chương trình quốc gia về Chi trả Dịch vụ Môi trường Rừng (PFES).
Một tác động chính của dự án đến thời điểm hiện tại là việc tạo ra sự thay đổi hệ thống góp phần chuyển đổi vùng duyên hải ĐBSCL thông qua việc xây dựng thị trường cho các sản phẩm tôm hữu cơ; hỗ trợ nhà nước và các bên liên quan sử dụng cách tiếp cận này; thay đổi hành vi và các quan niệm; nhân rộng mô hình tôm rừng tích hợp và sự thay đổi hệ thống theo hướng “một vùng duyên hải hữu cơ” tại vùng ĐBSCL.
Đặc biệt, dự án đã góp phần tạo ra định hướng để tiếp cận các giải pháp khác nhau như bảo vệ rừng ngập mặn và cấp sổ đỏ cho các khu đất nông nghiệp được sử dụng để sản xuất tôm quảng canh.
Với mục tiêu đặt ra, dự án đã góp phần xây dựng phương pháp canh tác bền vững bảo vệ và tăng diện tích rừng ngập mặn. Phương pháp này sẽ hỗ trợ tăng sức chống chịu trước tác động của biến đổi khí hậu thông qua cách tiếp cận EbA – một trong những nội dung ưu tiên trong Đóng góp Quốc gia tự Quyết định (DNC) của Chính phủ Việt Nam.
Nhân rộng mô hình thích ứng BĐKH dựa trên hệ sinh thái RNM
Mặc dù đạt được một số kết quả như trên, tuy nhiên trong quá trình thực hiện Dự án cũng còn một số khó khăn, vướng mắc do liên kết chuỗi giá trị trong việc chi trả kinh phí tăng thêm cho người dân, cũng như chi trả dịch vụ môi trường rừng của một số doanh nghiệp chế biến có khi chưa thường xuyên và còn bị chậm; việc nhân rộng mô hình ra một số địa phương lân cận còn hạn chế.
MAM sẽ kết thúc vào tháng 2/2020, tại Hội thảo tổng kết khối phục rừng ngập mặn thông qua mô hình nuôi bền vững và giảm phát thải tại Cà Mau vừa qua, tỉnh bày tỏ mong muốn thành quả dự án sẽ tiếp tục được nhân rộng, giúp tỉnh Cà Mau trong quá trình xây dựng, đổi mới cơ cấu ngành nông nghiệp bền vững thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam, đóng góp vào giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu toàn cầu.
Bảo vệ và phát triển thương hiệu tôm sú Cà Mau. (Ảnh: IUCN) |
Theo đó, tỉnh Cà Mau đề nghị tiếp tục được hỗ trợ thúc đẩy phát triển bền vững liên kết chuỗi giá trị ngành tôm, tạo điều kiện mở rộng liên kết đa chiều. Trong đó, đẩy mạnh cơ hội phát triển, áp dụng các loại chứng nhận quốc tế/trong nước trong chuỗi giá trị ngành hàng tôm, khả năng liên kết và công nhận lẫn nhau giữa một số loại chứng nhận (như Seafood watch, Naturland, EU, Bio, BAP…) và góp phần xúc tiến liên kết giữa các doanh nghiệp Thủy sản Cà Mau với một số thị trường trong và ngoài nước thông qua các tổ chức (Liên Minh tôm sạch Cà Mau, Seafood Watch…) phát triển ngành tôm theo hướng chất lượng, hiệu quả và bền vững.
Đồng thời, nghiên cứu tính khả thi và đề xuất các yêu cầu, điều kiện thiết yếu từ cơ sở hạ tầng, quyền lợi trách nhiệm các bên, chính sách ưu đãi… trong mô hình “Vùng bờ biển có chứng nhận” tại vùng rừng ngặp mặn Cà Mau nhằm bảo vệ và phát triển thương hiệu tôm sú Cà Mau. Tiếp tục hỗ trợ việc hoàn chỉnh kế hoạch thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng cho tỉnh Cà Mau thực hiện Nghị định số 156/NĐCP của Chính phủ và Luật lâm nghiệp.
Để tạo ra một "vùng duyên hải hữu cơ", đại diện Tổ chức Phát triển Hà Lan (SVN) cho rằng, cần ưu tiên bảo tồn và phục hồi rừng ngập mặn như một chiến lược để thích ứng, giảm thiểu với biến đổi khí hậu quan trọng của quốc gia, khu vực ĐBSCL và các chính sách, kế hoạch cấp tỉnh.
Ngoài ra, tiếp tục ủng hộ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, lồng ghép vào thủy sản cũng như các lĩnh vực khác để duy trì nguồn tài chính cho bảo vệ rừng ngập mặn. Tận dụng thị trường carbon nội địa và thế giới, và cơ chế bù đắp đa dạng sinh học, cung cấp thêm nguồn vốn để tập trung bảo tồn và phát triển các hoạt động thị trường.