Bài học tăng trưởng xanh từ các nước đang phát triển

Năng lượng tái tạo được coi là trụ cột của nền kinh tế xanh (KTX) bởi nguồn năng lượng được xem là vô hạn này không chỉ giúp các quốc gia đang phát triển giải quyết được bài toán khan hiếm tài nguyên mà còn đạt được mục tiêu giảm thải khí carbon.
Tăng trưởng xanh để giảm nghèo và phát triển bền vữngĐiện gió ngoài khơi: Bước nhảy vọt dự báo đến 2030Xây dựng hệ thống tín chỉ carbon trong lĩnh vực quản lý chất thải rắn

Trung Quốc tập trung vào năng lượng tái tạo

Nghiên cứu công bố trên Nature Energy năm 2017, tính toán vòng đời phát thải khí nhà kính của các dạng năng lượng đến năm 2050 cho thấy, lượng khí thải carbon của năng lượng gió, mặt trời và hạt nhân thấp hơn nhiều lần so với than và khí đốt.

Mặc dù năng lượng hóa thạch vẫn đang là nguồn nhiên liệu chính của các ngành công nghiệp, nhưng tương lai không xa năng lượng gió, mặt trời, thuỷ điện, địa nhiệt và sinh khối sẽ dần thay thế than đá, dầu mỏ và khí đốt. Thỏa thuận khí hậu Paris 2015 với cam kết giảm thải khí carbon, giảm thiểu và tiến tới ngừng sử dụng nhiên liệu hóa thạch của 143 quốc gia trên thế giới là cơ sở vững chắc cho dự báo về sự lên ngôi của năng lượng tái tạo.

bai hoc tang truong xanh tu cac nuoc dang phat trien
Hiện nay, Trung Quốc đang đứng số 1 thế giới về sản xuất pin năng lượng mặt trời. (Ảnh: Reuters)

Trung Quốc hiện đang dẫn đầu thế giới về năng lượng tái tạo. Theo nghiên cứu năm 2019 của Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA), Trung Quốc đang đứng số một thế giới về sản xuất, xuất khẩu và lắp đặt tấm pin năng lượng mặt trời, tuabin gió, pin và xe điện. Nền kinh tế đang phát triển lớn nhất toàn cầu này cũng đứng đầu về công nghệ nền tảng với hơn 150.000 bằng sáng chế (tính đến năm 2016) về năng lượng tái tạo, chiếm 29% tổng bằng toàn cầu.

Năm 2018, Trung Quốc cũng là quốc gia đệ nhiều đơn công nhận bằng sáng chế nhất thế giới, lên tới 7.550 đơn. Ông Olafur Grimsson, Cựu Tổng thống Ai-len, hiện là Chủ tịch Hội đồng toàn cầu về Địa chính trị của Chuyển đổi năng lượng, nhận định rằng, cách mạng năng lượng tái tạo giúp tăng cường vị thế lãnh đạo toàn cầu của Trung Quốc, giảm thiểu sự phụ thuộc vào các nhà xuất khẩu nhiên liệu hóa thạch, đồng thời giúp nhiều quốc gia trên thế giới có được sự độc lập về năng lượng.

Với cam kết trở thành nền KTX, trong nhiều năm qua, Trung Quốc đã triển khai nhiều chính sách, kế hoạch để đạt được mục tiêu này. Luật Năng lượng tái tạo lần đầu được ban hành năm 2005 đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp đầu tư vào năng lượng tái tạo. Kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm lần thứ 11 (2006-2010) của Trung Quốc đặt trọng tâm vào năng lượng tái tạo.

bai hoc tang truong xanh tu cac nuoc dang phat trienTăng trưởng xanh để giảm nghèo và phát triển bền vững

Chiến lược Sản xuất năng lượng và Cách mạng tiêu dùng (2016-2030) cũng đặt trọng tâm vào năng lượng tái tạo với mục tiêu tăng tỉ lệ các nguồn nhiên liệu không hóa thạch (bao gồm thủy điện, năng lượng hạt nhân, năng lượng địa nhiệt, năng lượng mặt trời, năng lượng gió, nhiên liệu gỗ và tái chế chất thải) lên 20% năm 2030 và lên hơn 50% đến năm 2050.

Để thúc đẩy sự tăng trưởng của năng lượng tái tạo, chính phủ Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống chính sách hoàn chỉnh nhằm hỗ trợ ngành này. Kể từ năm 2006, nhiều chính sách ưu đãi, miễn thuế cho doanh nghiệp sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo đã được ban hành. Trong đó, chính sách ưu đãi thuế (thuế giá trị gia tăng được giảm một nửa và thuế thu nhập doanh nghiệp được miễn trong ba năm đầu, năm thứ tư đến năm thứ 6 được giảm một nửa) được đánh giá là có đóng góp lớn vào sự tăng trưởng vượt bậc của năng lượng tái tạo của Trung Quốc.

bai hoc tang truong xanh tu cac nuoc dang phat trien
Năng lượng tái tạo được coi là trụ cột của nền kinh tế xanh. (Ảnh minh họa)

Ngoài các chính sách tập trung vào phát triển năng lượng tái tạo, Trung Quốc cũng chú trọng đến xử lý và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Từ năm 2006, Trung Quốc tăng ngân sách cho xử lý ô nhiễm môi trường lên 15%. Đến năm 2009, đầu tư cho các vấn đề về môi trường đã đạt 1,33% GDP của nước này.

Kế hoạch Kinh tế xã hội 5 năm lần thứ 12 (2011-2015) đặt ra 7 mục tiêu chính bao gồm: Giảm khí thải ô nhiễm, cải thiện chất lượng nguồn nước uống, kiểm soát ô nhiễm từ hóa chất và chất thải độc hại, cải thiện cơ sở hạ tầng quản lý môi trường đô thị, cải thiện suy thoái sinh thái, tăng cường an toàn hạt nhân và tăng cường hiệu quả chính sách quản lý môi trường.

Song hành với các khoản đầu tư lớn là cải cách chính sách và nâng cấp hệ thống quản lý về môi trường. Bộ Bảo vệ môi trường được chuyển thành Bộ Sinh thái và Môi trường (MEE) với nhiều chức năng, nhiệm vụ mới rõ ràng hơn. MEE giám sát tất cả các chính sách liên quan đến nước, từ quản lý nguồn nước ngầm đến đại dương và biển. Trước đây, nhiệm vụ này thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau, gây chồng chéo và khó khăn trong quản lý. MEE cũng chịu trách nhiệm về các chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu.

Ngoài ra, Trung Quốc còn thành lập Uỷ ban lãnh đạo quốc gia về Biến đổi khí hậu, Tiết kiệm năng lượng và Giảm ô nhiễm nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xanh như sử dụng năng lượng hiệu quả, giảm thiểu ô nhiễm.

Đầu năm 2018, Trung Quốc ban hành Chiến lược quốc gia về phát triển bền vững, quyết định thành lập 3 đặc khu phát triển bền vững với các mục tiêu lớn về cải thiện môi trường. Đặc khu Thâm Quyến là trung tâm của công nghệ, đổi mới. Đặc khu này sẽ tích hợp các công nghệ xử lý nước thải, sử dụng chất thải, phục hồi sinh thái và trí tuệ nhân tạo để giải quyết các vấn đề về quản lý tài nguyên và ô nhiễm.

Đặc khu Quế Lâm tập trung vào các sáng kiến, đổi mới để giải quyết vấn đề sa mạc hoá, tạo ra các giải pháp có thể nhân rộng ở các khu vực đang đối mặt với sự xâm lấn của sa mạc. Đặc khu Thái Nguyên tập trung vào các giải pháp xử lý ô nhiễm nước và không khí. Đặc khu này sẽ cho ra đời các sáng kiến, giải pháp có thể ứng dụng được nhiều vùng khác nhau, dựa vào khai thác tài nguyên để giảm thiểu ô nhiễm.

Các quốc gia đang phát triển khác

Nhận thấy lợi ích của nền kinh tế xanh, rất nhiều quốc gia đang phát triển trên thế giới hướng đến nền kinh tế ít khí thải carbon này và đã đạt được thành tựu nhất định. Cũng như Trung Quốc, Ấn Độ bắt đầu thực thi các hành động hướng đến nền kinh tế xanh từ hơn một thập niên trước.

bai hoc tang truong xanh tu cac nuoc dang phat trien
Nông nghiệp hữu cơ không chỉ cải thiện thu nhập cho nông dân mà còn giúp Uganda giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. (Ảnh: Watchdog Uganda)

Năm 2005, Ấn Độ ban hành Đạo luật bảo đảm việc làm cho khu vực nông thôn (NREGA) với mục tiêu đảm bảo sinh kế cho cư dân nông thôn. Là một trong những nền nông nghiệp lớn nhất thế giới, Ấn Độ đối mặt với tình trạng thiếu nước do sự gia tăng nhu cầu về nước nông nghiệp và nước sạch với dự báo thiếu hụt lên tới 50% vào năm 2030.

NREGA tìm kiếm giải pháp và đào tạo cho người dân cách sử dụng nước tưới tiêu hiệu quả, cải thiện tình trạng thiếu nước. Đạo luật này đóng góp rất lớn vào việc cải thiện cơ sở hạ tầng sinh thái khu vực nông thôn - khu vực kém phát triển và chịu nhiều ảnh hưởng bởi ô nhiễm môi trường. NREGA đã trực tiếp cải thiện đời sống của người nghèo, thúc đẩy tăng trưởng hài hòa và cân bằng sinh thái.

Là một trong những nền kinh tế kém phát triển nhất của nhóm các nước đang phát triển, Uganda cũng đã thực thi nhiều hành động quan trọng nhằm thúc đẩy nền kinh tế xanh. Thành công nổi bật của quốc gia nằm ở phía Đông châu Phi với 85% dân số làm nông nghiệp này là nông nghiệp hữu cơ. Theo số liệu của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), năm 2003, diện tích đất nông nghiệp hữu cơ của Uganda đã đứng số 1 châu Phi và thứ 13 thế giới.

Hiện Uganda có số lượng nhà sản xuất nông nghiệp hữu cơ đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Ấn Độ. Nông nghiệp hữu cơ không chỉ thúc đẩy sản lượng xuất khẩu của Uganda mà còn đóng góp lớn vào công cuộc chống biến đổi khí hậu khi lượng khí thải nhà kính từ 1 ha nông nghiệp hữu cơ thấp hơn 64% so với nông nghiệp truyền thống. Nghiên cứu của UNDP chỉ ra rằng, nông nghiệp hữu cơ giảm từ 3-8 tấn khí thải carbon trên mỗi ha so với nông nghiệp truyền thống.

Để hỗ trợ phát triển nông nghiệp hữu cơ, từ năm 2004, Uganda đã ban hành Bộ tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ. Đến năm 2009, chính phủ Uganda bắt đầu soạn thảo Chính sách nông nghiệp hữu cơ với tầm nhìn nền nông nghiệp này sẽ là chìa khoá để cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện mục tiêu giảm nghèo quốc gia.

Chính sách này đi vào thực thi và đạt hiệu quả tích cực nhờ tập trung vào 7 vấn đề: Coi việc phát triển nông nghiệp hữu cơ như một phần tất yếu của ngành nông nghiệp; quản lý chặt chẽ chứng chỉ hữu cơ; tăng cường nghiên cứu để ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất; hỗ trợ mở rộng thị trường tiêu thụ tại địa phương trong nước và quốc tế; tổ chức giáo dục đào tạo kiến thức và kỹ năng sản xuất nông nghiệp hữu cơ cho nông dân; cải thiện công nghệ xử lý sau thu hoạch, bảo quản và lưu trữ; sử dụng nguồn tài nguyên theo hướng bền vững; và sự tham gia tích cực của các nhóm lợi ích đặc biệt như phụ nữ, thanh niên, người nghèo và người dễ bị tổn thương.

La Hoàn
Theo Tạp chí Kinh tế Môi trường

Xem thêm

Liên kết