Các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đang hướng đến phát triển KTTH nhằm giải quyết thách thức giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, “không đánh đổi” tăng trưởng kinh tế với ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Mới đây, đầu năm 2021, Ngân hàng Thế giới đã đăng tải tài liệu: Circular Economy in Industrial Parks: Technologies for Competitiveness [7] (tạm dịch: Kinh tế tuần hoàn trong khu công nghiệp: Công nghệ để/phục vụ cạnh tranh), trong đó trình bày rất rõ nội hàm KTTH trong KCN. Tài liệu này đã đưa ra các khuyến nghị thiết thực về cách các KCN có thể thúc đẩy sự luân chuyển của các nguồn lực và tăng cường khả năng cạnh tranh thông qua các công nghệ và mô hình kinh doanh đổi mới cũng như những gì chính phủ có thể làm để hỗ trợ các sáng kiến đó. Theo đó, các KCNST, cũng như các công nghệ và mô hình kinh doanh được áp dụng trong đó, là những nền tảng quan trọng để mở rộng cách tiếp cận nền KTTH và thúc đẩy tăng trưởng ngành công nghiệp xanh, bền vững. Đầu tư cơ sở hạ tầng và mô hình kinh doanh trong ba lĩnh vực sau: năng lượng (chủ yếu là công nghệ năng lượng tái tạo), nước (công nghệ cấp nước và xử lý nước thải), vật liệu và nhiệt thải (cộng sinh công nghiệp và các công nghệ thu hồi vật liệu khác) là những nội hàm mấu chốt cần thực hiện nếu muốn tiếp cận KTTH trong các KCN nói chung và KCNST nói riêng. Cụ thể hơn, các KCN có thể áp dụng kết hợp các chiến lược khác nhau để thúc đẩy nền KTTH như:
• Thúc đẩy sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo cao hơn, đồng thời đạt được tính trung hòa/cân bằng (neutrality) của carbon.
• Đầu tư vào cơ sở hạ tầng chung và cung cấp dịch vụ để tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn tài nguyên (ví dụ, mạng lưới hơi nước, nhà máy thu hồi carbon dioxide (CO2), sử dụng sinh khối và/hoặc khí sinh học).
• Giữ nguyên vật liệu và tài nguyên được sử dụng ở cấp KCN bằng cách khuyến khích các công ty thuê tạo ra một mạng lưới cộng sinh và cho phép trao đổi chất thải và phụ phẩm của họ.
• Xử lý rác thải bằng cách khuyến khích các công ty thành phần tích hợp các thiết kế tuần hoàn và sử dụng các công nghệ thân thiện với môi trường trong các cơ sở sản xuất của họ.
• Thúc đẩy việc thành lập các doanh nghiệp tái chế và cơ sở phân loại cung cấp dịch vụ cho các công ty thành phần.
• Xem xét lại các mô hình kinh doanh để cải thiện quản lý năng lượng, nước và chất thải ở cấp KCN.
• Khai thác công nghệ kỹ thuật số để tăng sự luân chuyển tài nguyên và trao đổi vật chất.
Khuôn khổ quốc tế về các KCNST đưa ra các yêu cầu đối với hoạt động kinh tế, xã hội và môi trường của KCN, cũng như yêu cầu quản lý tổng thể, phải được đáp ứng để nó được coi là KCNST. Các nguyên tắc KTTH được đưa vào các yêu cầu về hoạt động môi trường của khuôn khổ này. Những yêu cầu này có liên quan đến ngăn ngừa ô nhiễm; hiệu quả sử dụng tài nguyên và sản xuất sạch; cộng sinh và hiệp lực công nghiệp; quản lý nước, chất thải và năng lượng.
Theo tài liệu của WB, để đẩy nhanh việc áp dụng các nguyên tắc KTTH, các nhà điều hành KCN cần:
• Điều chỉnh thiết kế kỹ thuật cho phù hợp với bối cảnh địa phương trong khi tối đa hóa việc sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng hiện có. Các chiến lược KTTH được giới thiệu trong báo cáo này không phải là một quy mô phù hợp với tất cả; khả năng tồn tại kỹ thuật của chúng thay đổi tùy theo tính sẵn có của công nghệ, cũng như một loạt các yếu tố hỗ trợ và hạn chế khác được xác định trên thực tế.
• Tạo giá trị chung thông qua hợp tác. Thúc đẩy sự hợp tác của các bên liên quan (bao gồm các nhà phát triển và vận hành KCN, các công ty thuê, hiệp hội công nghiệp,...) là chìa khóa để phát triển các giải pháp KTTH đổi mới, phù hợp với địa phương và khả thi về mặt kỹ thuật và kinh tế.
• Xem xét lại các mô hình kinh doanh hiện có và các đổi mới thí điểm. Cần định hướng và xây dựng các mô hình kinh doanh mới để tiếp cận nền KTTH chủ đạo, bao gồm việc cung cấp các dịch vụ bổ sung như đàm phán các thỏa thuận hợp đồng và xúc tiến quan hệ đối tác công tư để đầu tư cơ sở hạ tầng.
• Tăng cường năng lực thể chế và năng lực kỹ năng. Tình trạng của các hệ thống cơ sở hạ tầng hiện có, năng lực thể chế và sự sẵn có của các nhà điều hành lành nghề là những vấn đề cần quan tâm. Có thể không phải lúc nào cũng có đủ năng lực nội bộ và khả năng thiết kế, bảo trì và vận hành cơ sở hạ tầng có các thiết kế công nghệ mới, khi đó cần hỗ trợ kỹ thuật, bao gồm đào tạo kỹ năng cho các nhà điều hành KCN, các nhà cung cấp công nghệ và các cơ quan Chính phủ có liên quan.
• Tận dụng các công nghệ và nền tảng kỹ thuật số. Tiếp cận và tương tác kỹ thuật số có thể thúc đẩy thị trường không chỉ cho các sản phẩm mới mà còn cả dịch vụ, tài sản không được sử dụng, vật liệu thứ cấp và vốn nhân lực.
Các biện pháp can thiệp vào KCN cũng được thảo luận, nhắm vào mục tiêu cung cấp một cách tiếp cận hiệu quả về chi phí để tăng cường các thực hành KTTH một cách tổng hợp trên nhiều lĩnh vực. Các KCN thường có nhiều lĩnh vực công nghiệp và các công ty thuê, được quản lý hoặc điều tiết bởi chính quyền quốc gia và thành phố, và có mối liên kết hai chiều với các ngành công nghiệp trong nước. Chúng tiêu thụ một lượng lớn tài nguyên nước và năng lượng đồng thời tạo ra chất thải. Sự kết tụ của các ngành công nghiệp, cũng như các yếu tố ngoại ứng xã hội và môi trường gắn liền với sản xuất công nghiệp, là cơ hội lý tưởng để đưa ra các nguyên tắc KTTH.
Nhằm vào mục tiêu là các KCN có nhiều đơn vị sản xuất có thể tạo ra động lực cần thiết để áp dụng các nguyên tắc KTTH. Bằng cách tích hợp các nguyên tắc này, các nhà khai thác KCN và các doanh nghiệp thành viên có thể giảm tiêu thụ tài nguyên và chi phí vận hành, do đó tăng khả năng cạnh tranh đáng kể. Việc thực hiện các nguyên tắc KTTH trong các KCN đòi hỏi phải có các cách tiếp cận sáng tạo, tận dụng các mô hình và công nghệ EIP. Chúng bao gồm những không giới hạn, tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, cộng sinh công nghiệp, xử lý và tái sử dụng nước thải giữa các doanh nghiệp và ở cấp KCN, thu hồi nhiệt thải trong các quy trình công nghiệp và định giá chất thải rắn làm nguyên liệu thay thế. Để thúc đẩy hợp lực thông qua cách tiếp cận có kế hoạch mà các Chính phủ, công ty và tổ chức quốc tế có thể xây dựng dựa trên các khái niệm và khuôn khổ đã tồn tại, chẳng hạn như KCNST.
“Khái niệm KCNST lần đầu tiên được quy định trong Nghị định 82/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định về quản lý KCN và khu kinh tế. Khái niệm này thực tế vẫn còn khá mới mẻ tại Việt Nam và hầu như chưa có thêm các quy định, văn bản pháp quy hỗ trợ phát triển mô hình này”.
Huỳnh Trung Hải - Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
[8] Trung Quốc đã thông qua Luật Thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn vào ngày 29 tháng 8 năm 2008, được thực thi vào ngày 1 tháng 1 năm 2009. Luật được coi là chiến lược then chốt trong phát triển kinh tế và xã hội quốc gia, đồng thời thúc đẩy hiệu quả sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường tự nhiên và phát triển bền vững. Luật này chỉ ra rằng, các chiến lược KTTH sẽ chỉ được thực hiện nếu nó khả thi về công nghệ, thực tế về kinh tế, phù hợp trong việc tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý việc thúc đẩy nền KTTH, nơi họ phải tổ chức, điều phối và điều chỉnh các chiến lược KTTH quốc gia. Theo luật, bất kỳ chính sách công nghiệp mới nào do Chính phủ tạo ra đều phải đáp ứng các tiêu chí thúc đẩy nền KTTH. Các ngành công nghiệp phải thực hiện các hệ thống quản lý nhằm giảm việc sử dụng tài nguyên và giảm phát sinh chất thải, đồng thời cải thiện việc thu hồi và tái chế tài nguyên.
Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 của Trung Quốc được thực hiện từ năm 2011 đến năm 2015, như một kế hoạch chiến lược phát triển quốc gia, trong đó vạch ra sự thay đổi chính sách của đất nước đối với việc tái chế tài nguyên, thay vì các mô hình trước đây thực hành hiệu quả tài nguyên. Đã có khoản đầu tư 468 tỉ đô la Mỹ để đạt được các mục tiêu được trình bày trong kế hoạch, trong đó hướng vào việc nội bộ hóa các mục tiêu bền vững trong các tổ chức và thúc đẩy một mô hình tăng trưởng mới dựa trên năng lượng tái tạo. Mục tiêu của các sáng kiến là đưa 50% KCN quốc gia và 30% KCN cấp tỉnh trải qua quá trình chuyển đổi sang KTTH vào năm 2015.
Kế hoạch Hành động Chiến lược Phát triển Kinh tế tuần hoàn được lập vào ngày 23 tháng 1 năm 2013, tiếp tục đưa ý tưởng về một nền KTTH vào luật pháp Trung Quốc. Kế hoạch đã vạch ra ba cấp độ của nền KTTH ở Trung Quốc, là trong một công ty, KCN và thành phố hoặc khu vực. Các mục tiêu có thể đạt được vào năm 2015 là có một công nghệ tái chế tài nguyên được sử dụng rộng rãi, tiên tiến, tái sử dụng 72% chất thải rắn công nghiệp, một hệ thống hiện đại để thu hồi ít nhất 70% chất thải và cải thiện việc thu hồi tài nguyên. Các mục tiêu khác bao gồm nâng cao năng suất năng lượng lên 18,5%, tăng năng suất nước lên 43%, hỗ trợ ngành công nghiệp tái chế đạt sản lượng 276 tỉ đô la Mỹ và tái sử dụng 70% một số khoáng chất gây ô nhiễm nặng. Các mục tiêu cho năm 2020 được vạch ra trong kế hoạch bao gồm có một hệ thống công nghệ công nghiệp sáng tạo có thể tái sử dụng và tái chế vật liệu một cách hiệu quả, cũng như tạo ra một ngành công nghiệp mới liên quan đến sản xuất thiết bị kỹ thuật tiên tiến nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh.
Tiếp đó, Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 của Trung Quốc được công bố vào ngày 5 tháng 12 năm 2016, trong đó nó phác thảo các kế hoạch tăng trưởng cho giai đoạn 2016 - 2020. Kế hoạch này dựa trên ba ý tưởng cốt lõi, đó là tăng cường các giải pháp quản lý, cải thiện chất lượng môi trường và đẩy nhanh việc xử lý/bồi thường các thiệt hại về môi trường. Kế hoạch này tập trung vào việc cải thiện chất lượng tài nguyên nước, thông qua quản lý theo đơn vị, các sáng kiến trên toàn lưu vực để giải quyết ô nhiễm nước, bảo vệ các nguồn nước với chất lượng tốt, tạo ra các chiến lược để giải quyết ô nhiễm nước ngầm và cải thiện chất lượng nước ở cả đô thị và khu vực nông thôn.
Ngoài ra còn tập trung vào ô nhiễm đất, nơi sẽ phải thực hiện nhiều hơn việc giám sát toàn diện. Một khuôn khổ bồi thường và thuế bảo vệ môi trường mới được đưa ra trong kế hoạch, nhằm mục đích thúc đẩy thị trường trái phiếu xanh trong nước. Các mục tiêu chính khác của Kế hoạch 5 năm này bao gồm thúc đẩy sản xuất tuần hoàn nhằm thiết lập nền KTTH ở tất cả các cấp trong xã hội, tạo ra một hệ thống phát triển tuần hoàn với các chiến lược tài nguyên mới, giảm lãng phí và tiêu thụ, tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên và hỗ trợ các sáng kiến xanh. Hơn 75% KCN quốc gia và hơn 50 KCN cấp tỉnh phải thực hiện các chiến lược tuần hoàn vào năm 2020.
Nhà nước Trung Quốc đã tạo được cơ chế chính sách, hành lang pháp lý mạnh, kế hoạch thực hiện tốt để phát triển KTTH trên đất nước đông dân nhất thế giới. Việt Nam có thể học hỏi được nhiều từ kinh nghiệm của nước láng giềng có nhiều điều kiện phát triển tương đồng với Việt Nam.
Có thể thấy, việc đưa, tiếp cận KTTH vào các KCN nói chung và KCNST nói riêng là hợp lý và đang được thực hiện nhiều nơi trên thế giới. Việt Nam có đủ điều kiện để thực thi điều này và sớm muộn phải tiến hành các bước cần thiết để các KCN Việt Nam trở thành KCNST có tiếp cận KTTH.
Theo Ngân hàng Thế giới, ô nhiễm nước có thể gây thiệt hại cho Việt Nam tới 3,5% GDP vào năm 2035. Đặc biệt, Việt Nam nằm trong số các quốc gia dễ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu. Năm 2010, biến đổi khí hậu và thiên tai đã gây thiệt hại 5,14% GDP của Việt Nam và con số này có thể lên tới 11% vào năm 2030. Vì vậy, để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết thì hướng tiếp cận chuyển đổi mô hình từ “kinh tế tuyến tính” sang “kinh tế tuần hoàn” cần được xem là một ưu tiên trong giai đoạn tiếp theo của phát triển đất nước.
Nguồn tham khảo:
[7]. WB Group, 2021, Circular Economy in Industrial Parks: Technologies for Competitiveness.
[8]. https://en.wikipedia.org/wiki/China%27s_Circular_Economy
GS.TS Hoàng Xuân Cơ
Thiết kế: Hoàng Việt